Lẽ ghét thương là lời tâm huyết của Nguyễn Đình Chiểu về nỗi ghét tình thương.

Nhờ nghệ thuật dùng điệp từ kết hợp với nghệ thuật bố cục chặt chẽ, mạch lạc mà đoạn thơ đọc lên giọng điệu vừa trang nghiêm vừa thống thiết, một nét đặc trưng của điệu thơ trữ tình Nguyễn Đình Chiểu.

     Trong đoạn thơ trích nói về “Lẽ ghét thương” có tất cả 26 câu thì trong đó có 10 câu nói về “ghét”, 16 câu nói về “thương”. Như vậy là số lời nói về thương dài gần gấp đôi so với số lời nói về “ghét”. Bản thân tác giả đã có lần nói rõ: “Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương”. Quả đúng như vậy, nếu đọc lại 10 câu thơ nói về “ghét” thì ta sẽ thấy căn nguyên, gốc rễ của cái “ghét” ở đây là lòng thương dân. Sở dĩ ông Quán “ghét”, “ghét cay ghét đắng, ghét vào tận tâm”, những cái “tầm phào”, những cái “đa đoan ”, những cái “dối trá ”, những cái “mê đắm”, là vì chúng là “rối dân”, “làm dân nhọc nhằn”, làm “dân luôn chịu lầm than muôn phần ”, làm “dân đến nỗi sa hầm sẩy hang”. Trong số 10 câu thơ của đoạn này thì câu 4 câu có từ dân nói về nỗi khổ của dân:

– Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang

– Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.

– Chuộng bề dối trá làm dân nhọc nhằn.

– Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.

   Để giãi bày những lời tâm huyết về nỗi ghét này được sâu đậm, nhà thơ đã sử dụng nghệ thuật điệp từ. Trong 10 câu thơ có 8 từ “ghét” thì hai câu mở đầu đoạn trích đã có 4 từ. Riêng ở câu thơ thứ hai:

“Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm ”

   Kết hợp với nghệ thuật dùng điệp từ là nghệ thuật tăng cấp để diễn tả các màu sắc, mùi vị và độ sâu tăng dần của cái ghét: Từ cái ghét có vị cay, sang cái ghét có vị đắng, đến cái ghét có độ sâu của lòng người: “ghét vào tận tâm”. Với cách diễn đạt tăng cấp này, Nguyễn Đình Chiểu cho bạn đọc biết cái ghét của ông Quán đã đổi gam, đổi chất, cái gọi là ghét của ông Quán thực ra là lòng căm thù. Ông Quán căm thù tất cả những con người, những sự việc làm tổn hại đến hạnh phúc của nhân dân. Điều này thể hiện tính nhân dân sâu sắc của văn thơ Nguyễn Đình Chiểu.

   Đối lập với nỗi ghét, lòng căm ghét là tình thương, ông Quán đã tự bạch về tình thương của mình trong 16 câu. Mở đầu là ông nói về tình thương của ông với Khổng Tử vất vả, gian lao trong công việc truyền đạo Nho: “ Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuông”. Tiếp đó ông bày tỏ tình thương của ông đối với Nhan Tử, Gia Cát, Đổng Tử, Nguyên Lượng, Hàn Dũ, Liêm, Lạc. Họ là những con người hiền nhân, quân tử, kiểu mẫu của đạo Nho, những muốn hành đạo, giúp vua, cứu đời và cứu dân, nhưng rút cục là gặp bất hạnh hoặc chết yểu, hoặc là không được vua tin dùng, hoặc là không gặp thời vận. Mơ ước và nguyện vọng hành đạo, cứu đời, cứu dân của họ không thành.

   Nếu như ở đoạn thơ mười câu trên, tác giả cho nhân vật nói lòng căm thù bọn người hại dân để nói lên lòng thương dân thì ở đoạn thơ 16 câu này tác giả lại cho nhân vật bộc lộ lòng thương yêu trực tiếp đối với những người có tài cao, chí cả, muốn cứu đời giúp dân mà gặp phải những rủi ro, bất hạnh nên nguyện vọng cứu đời, cứu dân không thực hiện được.

   Để biểu hiện tình cảm thương yêu đầy tính chất bác ái và nhân bản đó, Nguyễn Đình Chiểu ở đoạn thơ 16 câu này vẫn tiếp tục dùng nghệ thuật điệp từ. Trong 16 câu thơ này ông đã dùng 9 từ “thương”:

   Mở đầu cho đoạn thơ ông dùng đến hai từ “thương”:

“Thương là thương đức thánh nhân”

   Điệp từ “thương” biểu hiện niềm thương yêu tha thiết của nhân vật đối với Khổng Tử, khi Khổng Tử gặp những gian nan, vất vả trên đường hành đạo. Phải nói là lòng thương của ông Quán ở đây rộng lớn. Ông thương cả đến những người chết yểu mà công danh chưa đạt:

“Thương thầy Nhan Tử dở dang,

        Ba mươi mất tuổi tách đàng công danh”.

   Ông thương cả đến những người không gặp vận may:

“Thương ông Gia Cát tài lành,

Gặp cơn Hán mạt đã dành phôi pha”.

   Từ đó ông Quán bộc lộ tình thương đến số phận cay đắng của con người trước những quy luật khắc nghiệt của tạo hoá và xã hội. Đoạn thơ có nghệ thuật bố cục khá chặt chẽ, mạch lạc.

   Có câu mở đầu nói về “ghét”:

                 “Quán rằng: Ghét việc tầm phào

                 Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tận tâm”

   Có câu mở đầu nói về đoạn “thương”:

“Thương là thương đức thánh nhân

Khi nơi Tống Vệ, lúc Trần, lúc Khuâng”.

   Có câu kết cho cả hai đoạn “ghét” và “thương”:

“Xem qua kinh sử mấy lần

Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương”

    Đối với các ý nhỏ trong mỗi đoạn ghét và thương, tác giả lại dùng các điệp từ ghét và thương để vừa tách biệt vừa liên kết các ý nhỏ lại với nhau. Ví dụ:

“Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,

Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.

Ghét đời u, Lệ đa đoan,

Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần

   Hoặc:

“Thương ông Gia Cát tài lành,

Gặp cơn Hán mạt đã đành phôi pha.

Thương thầy Đổng Tử cao xa,

Chí đà có chí, ngôi mà không ngôi”.

   Nhờ nghệ thuật dùng điệp từ kết hợp với nghệ thuật bố cục chặt chẽ, mạch lạc mà đoạn thơ đọc lên giọng điệu vừa trang nghiêm vừa thống thiết, một nét đặc trưng của điệu thơ trữ tình Nguyễn Đình Chiểu.

Nguyễn Quốc Túy

Chia sẻ: Tailieuhay.net

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *