Chứng minh thiên nhiên đẹp và gợi cảm qua những bài thơ Tràng giang của Huy Cận, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

Bài làm cần nêu được cánh sắc thiên nhiên và cảm hứng trữ tình của Huy Cận, Xuân Diệu và Hàn Mặc Từ qua ba bài thơ Tràng giang, Đây mùa thu tới, và Đây thôn Vĩ Dạ…

Đề bài:Thiên nhiên trong nhiều bài thơ mới (1932-1945) đẹp và gợi cảm. Anh (chị) hãy chứng minh điều đó qua những bài thơ Tràng giang của Huy Cận. Đây mùa thu tới cùa Xuân Diệu, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử.

GỢI Ý

   Bài làm cần nêu được cánh sắc thiên nhiên và cảm hứng trữ tình của Huy Cận, Xuân Diệu và Hàn Mặc Từ qua ba bài thơ Tràng giang, Đây mùa thu tới, và Đây thôn Vĩ Dạ.

   Thiên nhiên xưa nay vẫn gắn bó với cuộc sống con người, với tình yêu và thơ ca. Đây cũng là một thi đề quen thuộc, đặc biệt là trong thơ ca lãng mạn ở nước ta, thiên nhiên đã được thể hiện đa dạng, nhiều màu sắc, đầy gợi cảm. Bức tranh thiên nhiên ở đây cũng là bức tranh tâm trạng, thể hiện tấm lòng của các thi nhân. Các bài thơ Tràng giang của Huy Cận, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu và Đay thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử là những bức tranh thiên nhiên thể hiện tâm trạng như vừa nói.

   Nhìn chung, các bức tranh này đều hữu tình, gợi cảm và đặc biệt là rất đẹp nhưng cũng đượm buồn, cái buồn của cả một thế hệ, một dân tộc trong những năm tháng tăm tối dưới thời Pháp thuộc.

   Trước hết, Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử là một bức tranh đẹp. Đẹp từ cảnh “nắng hàng cau, nắng mới lên” đến những mảnh vườn “mướt quá xanh như ngọc” “lá trúc chen ngang mặt chữ điền” rồi cả gió, mây, dòng nước, hoa bắp lay đến khung cảnh huyền ảo mông lung: “Thuyền ai dậu bến sông trăng đó”. “Sương khói mờ nhân ảnh”. Bức tranh thiên nhiên Vĩ Dạ đúng là gợi cảm, có sức cuốn hút đặc biệt.

   Đây mùa thu tới của Xuân Diệu là một bức tranh cảnh vật đượm buồn, điu hiu, run rẩy, khô gầy mỏng manh rét mướt… Vắng lặng, đầy không khí u uất chia lìa… Đặc biệt là hình ảnh đẹp trong hai câu cuối: “Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói. Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”.

   Sau cùng là bài Tràng giang của Huy Cận. Bức tranh thiên nhiên “Sông dài trời rộng bến có liêu” ở đây gợi lên một nỗi buồn mênh mông sâu thẳm. Từ sóng gợn, con thuyền, nước song song, đò ngang, bờ xanh, bãi vàng đến gió đìu hiu, bến cô liêu, bèo dạt, bóng chiều sa đều buồn bã, trống vắng, cô đơn, không đò, không cầu, không khói hoàng hôn. Bài thơ thể hiện một “lòng quê dợn dợn”, “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

   Nhìn chung, cả ba bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Đây mùa thu tới và Tràng giang của Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, và Huy Cận, ba bức tranh thiên nhiên đẹp, buồn, trong sáng, cũng là những bức tranh tâm trạng của một người buồn thời nô lệ, mất nước trước Cách mạng tháng Tám.

   BÀI THAM KHẢO

   Nhà phê bình nổi tiếng Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã dùng những lời trang trọng, tốt đẹp nhất: “Một thời đại trong thơ ca” để nói về phong trào Thơ mới (1932-1945). Với các gương mặt tiêu biểu nhất là Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử. Đó là những thi nhân chủ yếu đã đem lại cho thơ ca Việt Nam nhiều tác phẩm đặc sắc. Đặc biệt là hình ảnh thiên nhiên trong các tác phẩm này thật đẹp và gợi cảm. Có điều là do hoàn cảnh đất nước ta mất chủ quyền, nhân dân ta phải sống trong vòng áp bức của bọn thực dân phong kiến, nên hình ảnh thiên nhiên trong “Thơ mới” ở đây tuy đẹp mà buồn. Cứ thử dọc lại những bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu và Tràng giang của Huy Cận, chúng ta sẽ nhận ra rất rõ điều này.

   Thơ Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu và Huy Cậu, ba khuôn mặt lớn của Thơ mới, đều có chung một đặc điểm là thể hiện tình yêu thiên nhiên thật nồng nàn và say đắm. Bằng cảm hứng lãng mạn, các nhà thơ tài tình này đã xây dựng lên trong thơ mình những bức tranh thiên nhiên đầy màu sắc hữu tình và gợi cảm. Thiên nhiên ở đây mà cũng rất buồn, vì bao giờ cũng lá hình ảnh một thiên nhiên khúc xạ qua tâm hồn của nhà thơ. Nỗi buồn của các thi nhân ở đây cũng là nồi buồn của cả một thế hệ đương thời, nỗi buồn của cả một dân tộc phải sống lầm than trong những

   Năm tháng tối tăm u buồn dưới thời Pháp thuộc.

   Trước hết là bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, bài thơ thật xinh xắn với những cảnh thiên nhiên xứ Huế đầy cảnh sắc hữu tình, duyên dáng. Qua cái nhìn trong sáng giàu chất thơ của thi nhân, cảnh vật xứ Huế như sáng bừng lên trong ánh nắng ban mai “nặng mới lên “. Nổi bật lên từ bức tranh là một màu xanh óng ả mướt quá của cây cối vườn tược nhà ai, một màu xanh ngọc bích trẻ trung đầy sức sống. Thấp thoáng giữa vẻ đẹp tươi tắn, mượt mà “xanh như ngọc” ấy là một bóng hình gợi cảm:

    Nhìn nắng hàng can nắng mới lên

    Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

    Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

   Từ vẻ đẹp hư ảo như có như không, như ẩn như hiện này, bài thơ dẫn tới một bức tranh thiên nhiên khác, thể hiện cái đẹp huyền ảo của trăng gió mây trời và sông nước xứ Huế:

   Gió theo lối gió mây đường mây

   Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

   Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

   Có chở trăng về kịp tối nay!

   Đây là cảnh sông nước mây trời đầy huyền ảo của xứ Huế trong một đêm trăng tĩnh lặng. Lúc bấy giờ có gió, nhưng gió chỉ nhẹ, không đủ để làm cho mây bay, nhưng vừa đủ để hoa bắp lay khe khẽ. Trong cái không gian tĩnh lặng ấy, có một con thuyền đậu nơi bến vắng, khiến cảnh vật càng huyền ảo hơn. Đặc biệt là bến sông lúc này đã trở thành bến trăng và con thuyền cũng chở khảm ánh trăng. Đó là một không gian mênh mông hư ảo với “sương khói mờ nhân ảnh”.

   Đúng là thiên nhiên ở đây thật dẹp, thật quyến rũ nhưng cũng gợi buồn, một nồi buồn bâng khuâng dịu vợi, man mác lan tỏa. Phải chăng đó cũng chính là tâm trạng của nhà thơ, một chút lòng chơi vơi, hụt hẫng trước một linh cảm tản mạn chia lìa: “Gió theo lối gió mây đường mây” và một nỗi hoài nghi mờ mịt: Ai biết tình ai có đậm đà?…

   Tiếp đó, thiên nhiên trong bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu cùng buồn lặng “đìu hiu”, phai tàu, héo úa. Nhà thơ bắt đầu tác phẩm của minh bằng những hàng liễu rũ:

   Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

   Tóc buồn buông xuống lộ ngàn hàng.

   Lá liễu từng sợi dài rũ xuống, dưới mắt thi nhân đã trở thành làn tóc của người thiếu nữ tóc buồn buông xuống. Nước mắt không rơi thành giọt mà rơi thành sợi, sợi buồn “buông xuống lệ ngàn hàng”.

   Nhà thơ nhìn lá vàng từng chiếc rơi từng chiếc lại thấy đó là một sắc áo đẹp của mùa thu, nên đã reo lên chào đón:

   Đây mùa thu tới – mùa thu tới

   Với áo mơ phai dệt lá vàng.

   Cái đẹp của mùa thu ớ đây là cái đẹp của vẻ tàn phai, héo úa, khô gầy:

   Hơn một loài hoa đã rụng cành

   Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanh

   Những luồng run rẩy rung rinh lá…

   Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.

   Nỗi buồn mùa thu từ hoa rụng lá úa ở hai câu đầu của khổ thơ đã lan ra, thấm sâu vào các nhánh cây trơ trụi Khô gầy xương mỏng manh ở hai câu sau khiến cái rét thấu xương của từng luồng gió lạnh đã làm run rẩy rung rinh cả những chiếc lá thu còn sót lại.

   Nỗi buồn ấy, cái rét ấy càng dễ nhận ra ở nơi trống vắng, ở những bến đò. Tuy đây là chỗ bốn bề lộng gió lại hội tụ đông người, nhưng chính cái rét thấu xương kia cùng khiếu người ta e ngại, ít muốn sang sông.

   Đã nghe rét mướt luồn trong gió

   Đã vắng người sang những chuyến đò

   Nỗi buồn mùa thu còn thắm đẫm đến cả mây trời, làm nên một không khí u uất hận chia li với những cảnh chim bay về phương xa tránh rét:

   Mây vẩn từng không chim bay đi

   Khí trời u uất hận chia li

   Tất cả chi tiết của bức tranh thiên nhiên trong bài thơ này đều gợi nên một cảm giác xa xăm, nhớ thương buồn lặng. Cuối cùng, trên bức tranh thơ thấy hiện lên bóng dáng con người:

   Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói

   Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì?

   Đúng là hình ảnh của các cô với nét mặt buồn, với đôi mắt nhìn mãi ra xa, không chú mục vào một cái gì cụ thể mà như đang chìm đắm trong nỗi buồn và cô đơn, ngơ ngẩn.

   Sau hết, là bài thơ Tràng giang của Huy Cận bức tranh thiên nhiên ở đây là hình ảnh sông nước thấm đượm một nỗi niềm “Băng khuâng trời rộng nhớ sông dài”. Mở đầu bài thơ là một khung cảnh thiên nhiên êm đềm bình lặng:

   Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

   Con thuyền xuôi mái nước song song

   Thuyền về nước lại sầu trăm ngả

   Củi một cành khô lạc mấy dòng.

   Bên cạnh hình ảnh những “làn sóng”, “con thuyền” quen thuộc, những thi liệu từ lâu đã trở thành cổ điển, khổ thơ trên còn có thêm một nét sáng tạo hết sức bất ngờ: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Một cành củi khô trôi dạt vô định trên dòng sông chính là hình ảnh gợi người đọc nghĩ đến một thân phận lạc loài. Lối đảo ngữ “Củi một cành khô” càng làm nôi bật thêm sự cô độc, lạc loài và héo hon ấy.

Sang khổ thơ tiếp theo, nỗi buồn như càng thấm sâu hơn vào cảnh vật:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng,, bến cô liêu.

   Bức tranh thiên nhiên vụt lớn hẳn gió đìu hiu thổi qua vài dải đất lơ thơ giữa sóng dài quạnh vắng, lặng buồn. Ngay cả tiếng chợ chiều đã tàn từ một làng nào đó cũng không có nữa. Không gian tiếp đó lại được mở rộng và đẩy cao thêm trong hai câu cuối của khổ thơ, vì “nắng xuống trời lên” Nhưng tuyệt vời hơn cả là ở đây nhà thơ đã tả chiều sâu trong chiều cao. “Nắng xuống trời lên sâu chót vót”.

   Cảnh vật lại được mở ra thêm trong khổ thơ thứ ba với cả “bờ xanh tiếp bãi vàng” và những đám bèo trôi dạt “hàng nối hàng” chẳng biết sẽ về đâu. Toàn cảnh tràng giang trời rộng sông dài ấy lại tuyệt nhiên quạnh vắng, thiếu hẳn bóng người. Ở đây không có lấy một chuyến đò ngang hay một chiếc cầu để “gợi chút niềm thân mật:” Dưới mắt thi nhân, thiên nhiên dù hoang vắng nhưng vẫn lung linh và có hồn. Chính cảnh tình ấy đã lắng đọng thành lòng quê dờn dợn ở khổ kết bài thơ:

   Lòng quê dờn dợn vời con nước

   Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

   Đến đây, con người mới hiện ra cái cả tâm tình sâu nặng của mình giữa một thiên nhiên. Chua xót hơn nữa thi nhân đứng trên quê hương mình mà da diết nhớ quê hương mình, nói một cách khác là cảm thấy mình lạc loài ngay chính trên quênhiên đẹp đến độ kì vĩ lạ lùng. “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc. Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” Cả một nỗi niềm “Sôngdài trời rộng bến cô liêu” đã dàn trải suốt bài thơ đến đây, bỗng hiện ra với một nội dung cụ thể: Đó là nỗi nhớ quê hương da diết. Ngàytrước, Thôi Hiệu đứng trên Hoàng Hạc lâu, trông vời khói sóng chiều hôm mà buồn nhớ quê hương. Còn ở đây, Huy Cận : “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.

DÀN BÀI

   Tóm lại, ba bài thơ: Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, Đây mùa thu tới của Xuân Diệu và Tràng giang của Huy Cận đều là những bức tranh thiên nhiên tuy tuyệt đẹp. Nhưng cũng đều ẩn chứa một nỗi buồn riêng. Cái buồn ở những bài thơ này cũng như của nhiều cái buồn của các nhà Thơ Mới chính là cái buồn của cá một thếhệ, của dân tộc ta trong những năm phải sống tủi nhục và đen tối dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến đương thời. Đây cũng chính là một trong những giá trị tư tưởng chủ yếu của Thơ mới trong thời kì 1930. Thơ ca lãng mạn với các tác giả trên thể hiện lòng yêu nước thầm kín.

   Sao anh không về chơi thôn Vĩ? Lòng yêu nước đó được thể hiện trong tình yêu thiên nhiên, yêu non sông đất nước, yêu ngôn ngữ tiếng Việt. Tiếng nói trong “Thơ mới” là tiếng mẹ đẻ yêu thương, phong cảnh trong “Thơ mới” chính là đất nước Việt Nam mĩ lệ với những vẻ đẹp riêng của từng vùng quê hương. Đây là cảnh thôn Vĩ Dạ nằm ngay bên bờ sông Hương với những cây trái xanh tươi bốn mùa, những ngôi nhà duyên dáng, vườn tược, sông nước, mây trời:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt lá xanh như ngọc

Lá chúc chen ngang mặt chữ điền

(Đây thôn Vĩ Dạ)

   Xuân Diệu từ miền Trung ra Hà Nội, cảm nhận ngay mùa thu xứ Bắc với rặng liễu đìu hiu, gió thu hiu hắt, sương thu bảng lảng và bầu trời mùa thu – không gian mùa thu – vàng sáng, thanh nhẹ.

Đây mùa thu tới mùa thu tới

Với ảo mơ phai dệt lá vàng…’

Thỉnh thoảng nàng  trăng tự ngẩn ngơ

Non xa khởi sự nhạt sương mờ…

Đã nghe rét mướt luẩn trong gió…

Đã vắng người sang những chuyến đò…

(Đây mùa thu tới)

   Tràng giang bắt nguồn từ cảm xúc trước cảnh sông nước Hồng Hà mênh mông. Trước Cách mạng, Huy Cận thường có thú vui vào chiều chủ nhật hàng tuần đi lên vùng Chèm, về để ngoạn cảnh Hồ Tây và sông Hồng. Phong cảnh sông nước gợi lên những cảm xúc không chi vẽ sông Hồng mà cả những dòng sông khác của quê hương;

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song…

   “Tình yêu quê hương trong bài “Tràng giang gợi lên và mở ra một tình yêu lớn lâu hơn mỗi miền quê, mỗi cảnh vật. Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước” (Huy Cận):

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa,

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà

   Trong câu thơ lãng mạn của Xuân Diệu có một niềm say mê ngoại giới, một khát khao giao cảm với đời, một lòng ham sống mãnh liệt “Sống toàn tim, toàn trí, toàn hồn! – Sống toàn thân và thức nhọn giác quan”:

Ta ôm bó, cánh tay ta làm rắn

Làm dây da quấn quýt cả mình xuân;

Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần

Chân hút rễ để hút mùn dưới đất

(Thanh niên)

   Ngoại giới trong thơ Xuân Diệu đầy thanh sắc, đó là một thiên nhiên được cảm nhận từ nhiều góc độ, bằng nhiều giác quan tinh tế:

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!

(Vội vàng)

   Lòng yêu cuộc sống trong thơ lãng mạn thường bị bế tắc nên hóa ra một nỗi đau đời. ‘Thơ mới” lãng mạn mang đến một cái tôi cá thể hóa trong cảm xúc ngoại giới. Phong trào “Thơ mới” đã nói lên được “một nhu cầu lớn về tự do và về phát huy bản ngã” (Tố Hữu). Trước kia trong văn học chỉ có cái Ta của cộng đồng, bây giờ cái Tôi cá nhân mới bước đầu được giải phóng. “Ngày thứ nhất ai biết đích ngày nào – chữ Tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân” (Hoài Thanh – Thi nhân Việt Nam). Thơ lãng mạn của Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử khẳng định cái Tôi như một bản lĩnh tích cực trong cuộc sống, như một chủ thể sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật. Lần đầu tiên có một cái Tôi cụ thể hóa trong cách cảm thụ thế giới và thiên nhiên. Con cò của Vương Bột bay lặng lẽ trong ráng chiều, nó tan vào cái vĩnh cửu, còn con cò của Xuân Diệu không bay mà cảnh phân vân, nó mang cái xốn xao khó hiểu của riêng Xuân Diệu:

Mây biếc về đâu, bay gấp gấp

Con cò trên ruộng cánh phân vân

(Thơ duyên)

   “Thơ mới” ít chấp nhận lối cảm thụ chung chung, tan biến vào cái ước lệ, vĩnh hằng. Các nhà thơ thường mang cái Tôi cá thể hóa, cái chủ quan phủ lên cảnh vật.

Một mùa xuân rạo rực, say mê theo cách nhìn trẻ trung, yêu đời của Xuân Diệu;

Ánh sáng ôm trùm những ngọn cao

Cây vàng rung nắng lá xôn xao

(Nụ cười xuân)

   Và một mùa thu buồn với những hàng lệ liễu lá rủ xuống như những người thiếu phụ đứng chịu tang:

Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng

(Đây mùa thu tới)

   Sự giải phóng cái Tôi của chủ thể sáng tạo đã làm nở rộ một thời kì văn học với những bông hoa giàu hương sắc. Lần đầu tiên trong có 13 năm trời, xuất hiện nhiều phong cách nghệ thuật độc đáo trong thơ. “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên… vá thiết tha rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” (Hoài Thanh – Thi nhân Việt Nam).

   Thơ Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử là một sự tổng hợp giữa những tinh hoa của thơ ca truyền thống với những ánh hưởng của thơ Đường, thơ lãng mạn và tượng trưng Pháp thế kỉ XIX. Chủ nghĩa lãng mạn Việt Nam xuất hiệu sau chủ nghĩa lãng mạn Pháp một thế kỉ nên nó mang những ảnh hưởng của nhiều trường phái khác nhau của phương Tây như lãng mạn, Thi sơn (Parnasse), tượng trưng. Từ 1936 về sau các nhà “Thơ mới” như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử chịu ảnh hưởng của các nhà thơ tượng trưng nhiều hơn là các nhà thơ lãng mạn Pháp. Thơ tượng trưng Pháp bên cạnh những mặt hạn chế, đã giúp cho các nhà “Thơ mới” cảm thụ thế giới một cách tinh tế hơn, nhất là lối diễn ta bằng cảm giác (“Đàn ghê như nước lạnh, trời ơi”), nâng cao tính nhạc của thơ, xây dựng những biểu tượng trong đó có sự hòa hợp giữa hương thơm, màu sắc và âm thanh (Huyền diệu). Tất nhiên, “Thơ mới” không chỉ có ảnh hưởng của thơ Pháp mà còn chịu ảnh hưởng khá sâu sắc thơ Đường. Tràng giang của Huy Cận có phảng phất nhạc điệu và tứ thơ của Đỗ Phủ (Đăng cao) và trong tứ thơ đã có một nét mới so với Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu. Điều lí thú là có khi ảnh hưởng thơ Đường, thơ Pháp nằm ngay trong một khổ thơ của Xuân Diệu:

Hơn một loài hoa đã rụng cành

Trong vườn sắc đỏ rủa màu xanhNhững luồng run rẩy rung rinh lá…

   Ba câu này có ít nhiều hơi hướng của thơ Pháp. Nhưng đến câu thứ tư: “Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh” thì ta lại thấy đó là một kiểu chấm phá trong một bức tranh thủy mặc của Trung Quốc:

   “Thơ mới” đã tổng hợp những ảnh hưởng của thơ ca phương Đông, phương Tây với những truyền thống của thơ ca phương Đông, để xây dựng một nền thơ ca Việt Nam hiện đại.

Chia sẻ: Tailieuhay.net

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *