Nhà văn M.B Khrapchenko đã từng nói: “Mỗi sáng tạo nghệ thuật chân chính tuyệt nhiên không phải là sự minh họa giản đơn cho tư tưởng này hoặc tư tưởng khác cho dù đó là tư tưởng rất hay”.
Nhà văn M.B Khrapchenko đã từng nói: “Mỗi sáng tạo nghệ thuật chân chính tuyệt nhiên không phải là sự minh họa giản đơn cho tư tưởng này hoặc tư tưởng khác cho dù đó là tư tưởng rất hay”. Thật vậy, một tác phẩm nghệ thuật muốn đi sâu vào tâm hồn của người đọc thì nó phải là sự sáng tạo của cá nhân nhà văn, tác phẩm đó phải phản ánh được cái nhìn riêng của tác giả chứ không phải là sự sao chép sáo rỗng tư tưởng, cái nhìn của người khác. “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu là một tác phẩm sáng tạo như vậy. Cách khám phá đời sống mới mẻ của nhà văn đã làm nên một “sáng tạo nghệ thuật chân chính” tạo nên chiều sâu tư tưởng cao đẹp cho tác phẩm.
Bên cạnh cốt truyện hấp dẫn, nghệ thuật kể chuyện sinh động, phân tích tâm lý nhân vật tài tình… sự phát hiện, cái nhìn nhận mới mẻ về nội dung cũng là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên thành công của một tác phẩm truyện ngắn. Là một nhà văn “khắt khe” trong sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Minh Châu luôn đòi hỏi tác phẩm của mình phải là “một bức tranh góc cạnh có chiều sâu, sức khái quát cao về cuộc sống đa diện, nhiều chiều luôn vận động và phát triển”, phải là “cái khoảnh khắc chứa đựng cả một đời người”. Tư tưởng đó đã được nhà văn thể hiện thật thành công qua truyện ngắn “bức tranh”. Tác phầm là một “tiếng còi báo hiệu” một bước chuyển mới trong sáng tạo văn học, dự báo một quan niệm “nhận đường mới”, một bút pháp hoàn toàn mới của Nguyễn Minh Châu nó đã nói lên những phát hiện về cuộc sống với biết bao nghịch lý, lạ lùng thậm chí có cả sự tàn nhẫn, biết bao ngẫu nhiên bất ngờ, những phức tạp, bí ẩn của con người trong cuộc sống thường nhật…Và đến với “Chiếc thuyền ngoài xa” một lần nữa nhà văn đã thể hiện thật xuất sắc nội dung tư tưởng lớn lao ấy. Tác giả đã xây dựng nên một tình huống mang tính nhận thức với nhiều phát hiện độc đáo để khám phá ra được bản chất thực sự của đời sống.
Với tư cách người nghệ sĩ nhiếp ảnh, Phùng đã kể lại câu chuyện về chuyến đi công tác của mình khi được người trưởng phòng giao nhiệm vụ chụp ảnh bổ sung vào bộ lịch năm mới. Một cảnh biển buổi sáng có sương, anh đã đến một vùng biển miền Trung, nơi phong cảnh thật là thơ mộng, còn sương mù vào tháng bảy. Tại đây, sau nhiều ngày “phục kích” thiên nhiên, Phùng ngẫu nhiên gặp được một cảnh đắt trời cho:“trước mặt tôi là một bức tranh mực tầu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh của một con dơi” .Trước vẻ đẹp ấy người nghệ sĩ “trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp chặt vào”. Trong khoảnh khắc đó, anh ta “tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nhưng ngay sau “khoảnh khắc hạnh phúc tràn ngập tâm hồn, do cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh đem lại” nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng đã chứng kiến một cảnh hoàn toàn đối lập với vẻ đẹp của chiếc thuyền khi nó còn ở ngoài xa với một “ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”. Tất cả những ấn tượng ấy sẽ không bị phá vỡ nếu như không có sự xuất hiện của “chiếc thuyền ngoài xa”. Bước ra từ chính chiếc thuyền ấy là hai người, một đàn ông với tấm lưng rộng, cong như lưng chiếc thuyền và một đàn bà xấu xí trạc ngoài bốn mươi tuổi. Hình ảnh con người hiện ra với vai trò là nhân vật trung tâm của bức tranh cuộc sống xã hội, để rồi từ đó Phùng có thể bám sâu vào hiện thực ấy phản ánh chân thật về con người, về những đều chưa thấy hay chỉ có thể nghe. Sau khi đi đến chiếc xe rà phá mìn trên bãi cát, người đàn ông “trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào người đàn bà, vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, cứ mỗi nhát quất xuống, lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn: “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ!”. Còn người đàn bà thì nhẫn nhục, cam chịu, không hề kêu một tiếng, cũng không tìm cách trốn chạy. Tiếp sau đó là cảnh đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh bố để bị lão đàn ông “dang thẳng cánh cho thằng bé hai cái tát khiến thằng nhỏ lảo đảo ngã xuống cát”. Rồi lão lẳng lặng bỏ đi về phía bờ nước để trở về thuyền. Người đàn bà sau khi có những cử chỉ như van xin đứa con cũng đuổi theo gã đàn ông, trở lại thuyền. Một tình huống thật kỳ lạ !
Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này “người yêu người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu). Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như “gã đàn ông độc ác và tàn nhẫn nhất thế gian”, còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo hành trong gia đình. Hành động tấn công gã đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng: “Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”. Nhưng phản ứng của người đàn bà trước chánh án Đẩu đã khiến anh choáng váng: “Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó…”. Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có lòng tốt bởi “các chú đâu có phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió bão.Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp của một bức tranh toàn bích, nhưng đằng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh. Hoá ra hành trình tìm kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia dù thô bạo nhưng trên chiếc thuyền phải có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên chiếc thuyền khiến người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào…Thế nhưng trong cuộc sống nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền chật hẹp, người đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến. Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao Công của cái phố huyện vùng biển”. Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự khoan dung…mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những kết hợp ấy trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu đem đến cái nhìn đa diện về số phận con người. Nếu như trước kia, trong văn học 1945 – 1975, khi đề cập đến số phận con người thì bao giờ các nhà văn cũng đề cao vào khả năng con người vượt qua nghịch cảnh và những tác động của môi trường, của xã hội mới sẽ giúp con người tìm thấy hạnh phúc. Khi diễn tả sự vận động của tính cách con người, các nhà văn cũng thường nói về sự vận động theo chiều hướng tích cực, từng bước vượt lên hoàn cảnh, hồi sinh tâm hồn. Cách minh họa tư tưởng ấy không tránh khỏi có phần giản đơn và phiến diện. Nguyễn minh Châu đã không đi theo con đường mòn đó. Trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, nhà văn đã nói về những nghịch lý tồn tại như một sự thật hiển nhiên trong đời sống con người. Bằng thái độ cảm thông và sự hiểu biết sâu sắc về con người, ông đã cung cấp cho ta cái nhìn toàn diện về cái đẹp cuộc sống, hiểu cả bề mặt lẫn chiều sâu. Nguyễn Minh Châu đã từng phát biểu: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” (Phỏng vấn đầu xuân 1986 của báo Văn nghệ), “Nhà văn tồn tại ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời để bênh vực cho những con người không có ai để bênh vực” (Ngồi buồn viết mà chơi). Tư tưởng ấy được thể hiện trong tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” như một minh chứng cho tấm lòng hướng về con người, khả năng giải mã những mặt phức tạp của cuộc đời. Bức thông điệp trong tác phẩm về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống là nhận thức thấm thía : “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thuật, và rằng con người ta cần có một khoảng cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống cùng cuộc đời.”(Lê Ngọc Chương). Kết thúc tác phẩm, người nghệ sĩ đã hoàn thành kiệt tác của mình đem đến cho công chúng những cảm nhận về vẻ đẹp tuyệt mỹ của tạo hoá, thế nhưng mấy ai biết được sự thật nằm sau vẻ đẹp tuyệt vời kia? Phần kết của tác phẩm để lại nhiều suy ngẫm: “Quái lạ, tuy là ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kỹ, tôi vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai lúc bấy giờ tôi nhìn thấy từ bãi xe tăng hỏng, và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, đó là một người đàn bà vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch tấm lưng áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng khuôn mặt rỗ đã nhợt trắng vì kéo lưới suốt đêm. Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông”.Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người.
Qua những cái nhìn khác nhau của các nhân vật, đều là sự khúc xạ cái nhìn của tác giả. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu lại chọn người kể chuyện là một nghệ sĩ đã từng là người lính. Từ điểm nhìn của một người lính đã từng chiến đấu bảo vệ mảnh đất này, lời kể gợi ra một cuộc chiến đấu mới không kém phần gay go, gian khổ so với cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Đó là cuộc chiến đấu bảo vệ nhân tính, vẻ đẹp tâm hồn của con người trong cuộc sống hòa bình, cuộc chiến đấu để tìm đến hạnh phúc, tìm đến những giá trị đích thực của cuộc sống. Không chỉ vậy nhà văn còn cho người đọc nhận ra “những điều trông thấy mà đau đớn lòng” của cuộc sống để từ đó khái quát lên một quan niệm giàu tính nhân văn cao cả đó là sự đa chiều, phong phú của cuộc sống, con người không nên chỉ nhìn nhận vấn đề một cách phiến diện, qua loa mà cần phải đi sâu vào bên trong sự việc, tâm hồn để có thể thấu hiểu toàn diện nhất sự việc, vấn đề đó. Đó chính là cái nhìn mới mẻ về cuộc sống con người của nhà văn!
Có thể nói, với truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu đã cho người đọc cảm nhận được sự đa chiều của cuộc sống. Giống như là bản nhạc không chỉ có những thanh âm trong trẻo, nhẹ nhàng mà còn chứa đựng những giai điệu bay bổng, cao vút, cuộc sống luôn tồn tại song song những niềm vui, hạnh phúc còn có cả những đớn đau, bất hạnh… vì thế mà con người phải luôn nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, sâu sắc nhất để tránh được cái nhìn ấu trĩ, giản đơn. Giá trị đích thực của một tác phẩm là phải phản ánh được cuộc sống thật của con người như chính Nguyễn Minh Châu đã quan niệm: “Trên con đường đến chủ nghĩa hiện thực đôi khi chúng ta phải khai chiến cả với những quan niệm tốt đẹp và lâu dài của chính mình”. Sự phát hiện mới mẻ của nhà văn chính là một trào lưu văn học mới cho các thế hệ nhà văn noi theo, điều đó đã giúp cho Nguyễn Minh Châu trở thành cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới như nhà văn Nguyên Ngọc từng ca ngợi: “Nguyễn Minh Châu thuộc một trong số những nhà văn mở đường tinh anh và tài hoa nhất của văn học ta hiện nay”.
Chia sẻ: Tailieuhay.net