Cảm nhận về bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm.

Bài thơ mang tên khác là Khúc hát ru. Điểm mới mẻ đầu tiên là có hai người ru em cu Tai. Tác giả và người mẹ Tà-ôi. Hai người ru, hai lời ru – Những lời ru ấy quấn quýt, vừa nói về hiện thực, vừa nói về ưóc mơ, vừa ru em, nhưng cũng ca ngợi mẹ em

Dàn ý

I. Mở bài

– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Khoa Điềm: Tác giả Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ lớn, có nhiều tác hay đóng góp cho nền văn học nước nhà. Thơ của ông thường gắn liền với tình yêu quê hương đất nước, tình yêu con người và có giá trị nhân văn sâu sắc.

– Giới thiệu tác phẩm: Tác phẩm “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” thể hiện nguồn cảm hứng vô tận của tác giả với những người con đồng bào Tây Nguyên dân tộc thiểu số ít người. Bài thơ thể hiện tình cảm mẫu tử thiêng liêng, tình yêu của người mẹ dành cho con, hòa chung vào tình yêu quê hương đất nước, tạo thành một tình lớn, mang lại nhiều cảm xúc cho người đọc.

II. Thân bài:

Trình bày cảm nhận của bản thân về tác phẩm dựa trên những luận điểm sau

Khúc hát có ba đoạn lời ru. Những lời ru mô tả công việc mà người mẹ đang làm, cảnh mẹ địu em cu Tai và những lời mẹ ru, cũng là những khát vọng về tương lai của đứa con, của quê hương đất nước.

a. Người mẹ đang gánh vác những công việc rất khó khăn, vất vả: (mẹ làm gì? công việc khó khăn như thế nào?)

+ Đoạn 1: Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội

….Mồ hôi mẹ rơi…..vai mẹ gầy….

+ Đoạn 2: Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi

Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ

….Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói

+ Đoạn 3: Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng

….Mẹ địu em đi để giành trận cuối

Lời bình: Lúc ở nhà giã gạo nuôi quân, lúc lên núi tỉa bắp lấy lương thực chống đói cho dân làng, trong chiến dịch lớn thì trực tiếp tham gia trận cuối, mọi công việc vất vả mẹ làm đều vì việc chung, vì làng xóm, vì sự nghiệp cách mạng. Tình yêu quê hương, đất nước, tinh thần kháng chiến chống Mỹ là động lực là sức mạnh để mẹ có thể vượt lên mọi nhiệm vụ gian nan.

b. Dù trong hoàn cảnh nào mẹ vẫn chăm bẵm đứa con yêu thương.

– Mọi hoạt động của mẹ đều phục vụ cho quê hương, đất nước, cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước. Nhưng dù làm việc gì, ở đâu, em cu Tai, đứa con thương yêu vẫn ngon giấc trên lưng mẹ.

– Những câu thơ thể hiện vẻ đẹp tuyệt vời bằng hình ảnh độc đáo mẹ địu con, thấm đượm vị ngọt ngào đằm thắm của tình mẫu tử

+ Đoạn 1: Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi

Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối

Lưng đưa nôi mà tim hát thành lời

+ Đoạn 2: Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ

Em ngủ ngoan, em đừng làm mẹ mỏi

Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng

+ Đoạn 3: Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông

Mẹ địu con đi để giành trận cuối

– Bình một số câu thơ trong bài:

Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối

Lưng đưa nôi mà tim hát thành lời

+ Lời thơ đã gợi lên một hình ảnh thật đẹp. Mẹ vừa địu con vừa giã gạo, mặc dù vậy, vẫn tạo ra sự thoải mái cho đứa con nhỏ. Đứa bé vẫn được gối trên chiếc gối vai mẹ, lưng mẹ là chiếc nôi đung đưa ru con giấc ngủ say. Tuy nhiên, người đọc không khỏi bùi ngùi xúc động trước hình ảnh đôi vai gầy của mẹ. Cũng biết bao, trân trọng và yêu thương khi nghe con tim mẹ hát, vỗ về nâng đỡ giấc ngủ con thơ.

+ Chiếc gối vai, chiếc nôi lưng và tiếng hát con tim là những biểu tượng thật độc đáo về tình mẹ thương con.

Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng

+ Ở đây có sự so sánh: mặt trời của bắp / mặt trời của mẹ

+ Từ ý nghĩa, tác dụng to lớn của mặt trời đối với cây bắp đã thể hiện được ý nghĩa to lớn của đứa con (mặt trời của mẹ) đối với mẹ.

c. Lời ru của mẹ về giấc mơ của con:

– Lời ru của mẹ nói với con:

…Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần

Mai sau con lớn vung chày lún sân

…Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều

Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi

…Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ

Mai sau con lớn làm người tự do

– Những điều mẹ mong ước:

+ Mong muốn công cuộc lao động và chiến đấu đạt được những kết quả to lớn.

+ Mong muốn em cu Tai của mẹ có một tương lai, một cuộc sống tốt đẹp, mà cuộc sống tốt đẹp nhất là được sống trên một đất nước độc lập tự do.

+ Tình yêu nước và tình thương con, cái chung và cái riêng đã gặp nhau ở lý tưởng của thời đại.

– Những điệp ngữ: Con mơ cho mẹ… cho thấy ý nghĩa của cuộc đời, những khát vọng lớn lao của mẹ chỉ duy nhất là tương lai tốt đẹp của con.

III. Kết bài

Một đất nước mà văn học dân gian đã đúc kết thành một câu như đinh đóng cột: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, thì những người phụ nữ anh hùng giỏi nuôi con, giỏi đánh giặc luôn luôn có mặt ngoài cuộc đời.

Trong thời kỳ khắng chiến chống Mỹ cứu nước, những người mẹ rất đáng kính trọng ấy đã được khắc hoạ rất thành công trong văn chương nghệ thuật. Khúc hát ru… của Nguyễn Khoa Điềm là một tác phẩm như vậy.

Nét độc đáo của bài thơ là lần đầu tiên một người mẹ miền núi Tà-ôi được đưa vào văn chương và trở thành một trong những biểu tượng về Người mẹ Việt Nam nhân hậu và anh hùng.

Bài làm 1

       Bài thơ này được sáng tác rất nhanh trong một hoàn cảnh khá đặc biệt. Cuối bài thơ ghi rõ ngày 25 tháng 3 năm 1971 – Trần Phương Trà kể lại “một lần về đến nhà, chưa kịp đặt  gùi gạo xuống, với chiếc khăn mặt lau mồ hôi, Điềm ngồi vào bàn ghi ngay bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” rồi đưa cho tôi. Tôi thú vị đọc bài thơ và sung sướng nói với Điềm. Đây là một bài thơ hay viết về đồng bào dân tộc thiểu số. Xin chúc mừng Điềm”.

       Bài thơ mang tên khác là Khúc hát ru. Điểm mới mẻ đầu tiên là có hai người ru em cu Tai. Tác giả và người mẹ Tà-ôi. Hai người ru, hai lời ru – Những lời ru ấy quấn quýt, vừa nói về hiện thực, vừa nói về ước mơ, vừa ru em, nhưng cũng ca ngợi mẹ em. Đây là một cách trân trọng kết cấu lời ru làm cho “khúc hát”  có một sự hòa thanh mới lạ.

       Theo những lời ru của tác giả, ta biết được mẹ em như một người lao động cần mẫn. Những công việc của mẹ vừa có nét truyền thống: giã gạo, phát rẫy, lại vừa có nét hiện đại đạp rừng chuyển lán. Nhưng đây không phải là công việc bình thường của người mẹ trong gia đình. Công việc ấy mang một ý nghĩa khác thường, đó là việc nhà, nhưng cũng là việc nước, việc kháng chiến, việc cách mạng. Giã gạo, phát rẫy, đạp rừng để nuôi bộ đội, nuôi dân làng và đánh giặc. Vì thế người mẹ không chỉ là mẹ riêng của em Cu Tai, mà trở thành mẹ chiến sỹ, và cao hơn là mẹ Tổ quốc. Những lời này của mẹ – “tim hát thành lời” đó là tình cảm của mẹ, là khát khao ước vọng của mẹ đối với con trai của mình. Điều mới ở đây là tình mẫu từ thiêng liêng không phải chỉ dành cho một người con duy nhất của mẹ. Tình thương đó dành cho bộ đội, cho dân làng, và cho đất nước. Hiện tại, tương lai gần, tương lai xa của con trai đều gắn liền với dân làng, với cuộc kháng chiến của cả đất nưóc, dân tộc.

       Một khúc hát ru, nhưng là khúc hát ru hiện đại, nên không có những “sung chát đào chua” khống có những “cánh cò đi đón cơn mưa” trong cơn giông tối tăm mù mịt. Cũng không có những hình ảnh tươi đẹp của cuộc sống thanh bình. Hiện ra trong khúc hát ru là nỗi gian khổ, vất vả, nhọc nhằn: mồ hôi mẹ rơi, vai mẹ gầy nhấp nhô.

       Hiện ra trong khúc hát ru còn là tấm lưng của mẹ. Lưng đưa nôi, và lưng chính là nôi. Tấm lưng của người mẹ Tà-ôi gắn chặt với con trai trong mọi công việc vất vả nặng nhọc, tấm lưng ấy nhỏ, không to như lưng núi, nhưng bền bỉ như lưng núi, và kiêu hãnh hơn lưng núi vì con trai – mặt trời của mẹ nằm ở trên lưng. Và sau hết “từ trên lưng mẹ – em đến trường. Đến đây ta bỗng hiểu vì sao Nguyễn Khoa Điềm đặt tên cho khúc hát ru là Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ. Phải chăng mẹ đã dùng tấm lưng làm nôi nuôi dưỡng những dũng sĩ cho cuộc kháng chiến của dân tộc, và gánh chịu tất cả nỗi vất vả gian lao để giành chiến thắng Người mẹ Tà-ôi, người mẹ Việt Nam mãi mãi là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ ca ngợi. Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ là một giai điệu đẹp trong bản giao hưởng lớn về người mẹ ấy.

Bài làm 2

       Kháng chiến chống xâm lược bao giờ cùng là sự nghiệp của toàn dân. Nhưng tìm trong chính sử hoặc trong văn chương thành văn quá khứ thì chỉ thấy gương mặt của vua quan tướng tá, ít thấy bóng dáng người dân thường. Phải đến thời đại chúng ta, giai cấp vô sản lãnh đạo và lập nhà nước kiểu mới, hình ảnh người dân thường mới được thể hiện phong phú trong văn chương nghệ thuật. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ, nhiều nhà thơ đã dựng được những đài kỉ niệm kì vĩ ghi lại những chiến công và lòng yêu nước của những con người vô danh ấy. Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của Nguyễn Khoa Điềm cững là một trong những đài kỉ niệm đó.

       “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác vào ngày 25 tháng 3 năm 1971 là một trong những bài thơ hay của tác giả. Bài thơ viết về bà mẹ Tây Nguyên luôn luôn địu con trên lưng khi làm việc. Chọn bà mẹ đang nuôi con và đứa con ấp vú mẹ làm hai nhân vật tham gia đánh giặc, tác giả muốn nhấn mạnh tính toàn dân của cuộc kháng chiến. Bài thơ là sự phát triển song song hai mối tình cảm lớn: tình mẹ con và tình dân nước.

       Hình ảnh người mẹ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm vẫn là hình ảnh muôn thủa của bà mẹ Việt Nam, thương con, chịu đựng, tần tảo nuôi dạy con cái nhưng cũng là hình ảnh của người mẹ rất mới: yêu nước, thương dân, bất khuất. Cách đây mấy chục năm, trong kháng chiến chống Pháp có một bà mẹ nằm trong ổ chuối khô nhớ thương con ngoài mặt trận trong thơ Tố Hữu đã làm cho bao nhiêu người xúc động. Với ba khúc ca trong bài thơ của mình Nguyễn Khoa Điềm đã diễn tả tình yêu con và khát vọng của người mẹ dân tộc Tà-ôi trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, từ đó giúp người đọc thấy được lòng yêu quê hương, đất nước và khát vọng tự do của nhân dân ta trong thời kì lịch sử này.

       Ở khúc ca thứ nhất, người mẹ ru con khi địu con trên lưng và giã gạo nuôi bộ đội, giấc ngủ em nghiêng theo nhịp chày, thấm mồ hôi lao động vất vả của mẹ?

                                     “Nhịp chày em nghiêng, giấc ngủ em nghiêng

                                     Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi

                                     Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối

                                     Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”.

       Tiếng ru con “nghiêng” theo nhịp chày làm cho giấc ngủ em cu Tai cũng “nghiêng” theo. Con như đang chia sẻ sự vất vả của mẹ. Má em cũng “nóng hổi” vì bao mồ hôi mẹ tuôn rơi. Hàng loạt hình ảnh hoán dụ (mồ hôi, má, vai, lưng, tim) được sử dụng rất “đắt” thể hiện trái tim yêu thương mênh mông của người mẹ nghèo. Lưng mẹ là chiếc nôi để con lớn lên. Tim mẹ dạt dào tình mẫu tử, đã “hát thành lời”Hạt gạo hậu phương là “hạt vàng làng ta”; hạt gạo của mẹ nặng tình nghĩa, rất đáng tự hào:

                                        Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội

                                        Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần

                                        Mai sau con lớn vung chày lún sân…

       Ước mơ của người mẹ nối liền với giấc mơ con và hội tụ lại trong tình yêu thương sâu sắc những anh bộ đội. Khúc ca thứ hai là tiếng hát ru khi mẹ đi tỉa bắp trên núi Ka-lưi. Tình thương yêu và niềm hi vọng vô bờ bến của mẹ đối với con được thể hiện bằng những hình ảnh độc đáo:

                                      “Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi

                                      Lưng núi thì to mà lưng mẹ thì nhỏ

                                      Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi

                                      Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi

                                      Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng”.

       “Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi; Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng”. Hình ảnh mặt trời là một hình ảnh thực, mặt trời đem lại ánh sáng, sự sống cho cây cỏ, làm cho cây ngô thêm tươi tốt, bắp to, hạt mẩy.

       Hình ảnh mặt trời ở câu thơ sau là một ẩn dụ. Tác giả so sánh ngầm cu Tai là mặt trời của mẹ. Coi con như mặt trời thì quả là lòng mẹ yêu quý con vô hạn, mong đợi ở con rất nhiều. Đó là ánh sáng, là nguồn sống, là niềm vui, là niềm hạnh phúc, là tất cả tương lai của mẹ. Hai câu thơ hai hình ảnh tôn nhau lên, đổi ý với nhau đã làm nổi bật tình yêu thương sâu sắc là niềm hi vọng lớn lao của người mẹ đối với đứa con.

       Lời ru của người mẹ Tà-ôi ngân nga trong trái tim mẹ khi mẹ địu con đi tỉa bắp vẫn hướng về đứa con yêu quý của mình. Lòng thương yêu con của người mẹ trong hoàn cảnh này gắn liền với tình thương dân làng – những người lao động nghèo đói:

                                      Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói  

                                      Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều

                                      Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi

        Khúc ca thứ ba nhịp điệu vang lên dồn dập. Đó là lúc “Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối”, dồn đồng bào Tà-ôi vào chỗ chết, mẹ địu con khi đang “chuyển lán” và “đạp rừng”. Khi cả gia đinh đều ra trận:

                                     “Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông

                                      Mẹ địu em đi để giành trận cuối

                                     Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường

                                     Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn”

       Giặc Mĩ tàn bạo đã tàn phá làng mạc của họ, đạp đổ ngôi nhà, tổ ấm của mẹ con họ. Nhưng lũ giặc Mĩ không khuất phục được người mẹ. Khúc ca thứ ba là khúc ca chiến đấu; “Giặc đến nhà đàn bà cùng đánh” là truyền thống anh hùng của người phụ nữ Việt Nam. Ở đây, người mẹ địu con ra trận, đi tiếp tế, đi tải đạn vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước:

                                     “Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước

                                     Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ

                                     Mai sau con lớn thành người Tự do”

       Đó là giấc mơ tình thương, giấc mơ về ấm no, hạnh phúc, giấc mơ chiến thắng.

       Tiếng hát ru con của bà mẹ Tà-ôi không phải được cất lên bên cánh võng hay trên giường ấm nệm êm trong phòng ngủ. Tiếng hát ru ấy cất lên trong trái tim người mẹ. Tình mẫu tử thì có thể nói mãi không hết. Nguyễn Khoa Điềm đã cố gắng nói ít nhưng để ta thấy được cái chất của tình mẹ ấy: tha thiết đằm thắm như mọi tình mẹ con truyền thống Việt Nam, nhưng lại có cái cao rộng của thời đại cách mạng. Bà mẹ Tà-ôi là một bà mẹ lao động, trực tiếp sản xuất, phục vụ cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Tình thương con, thương bộ đội, thương dân làng, thương đất nước hòa quyện vào nhau trong tấm lòng của bà mẹ miền núi yêu nước trong những năm tháng chống Mĩ khó khăn, gian khổ.

       Theo lời ru (và theo tình yêu thương của mẹ), theo bước chân của bà mẹ Tà-ôi, không gian cũng được mở rộng dần: từ sân (khi mẹ giã gạo) đến ngọn núi Ka-lưi (khi mẹ tỉa bắp) rồi đến những rừng, những suối (khi mẹ chuyển lán, đạp rừng). Và ước mơ khát vọng của mẹ gửi gắm qua lời hát ru tha thiết, nặng tình nặng nghĩa ấy cũng một lúc một lớn dần: từ “con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều”…; từ mong muốn “Mai sau con lớn vung chày lún sân” đến ao ước “Mai sau con lớn phát mười Ka lưi” cuối cùng bùng lên thành khát vọng cháy bỏng:

                                      “Mai sau con lớn làm người Tự do”

       Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” xứng đáng là bài ca lòng mẹ Việt Nam. Một đứa con chỉ có thể lớn lên bằng dòng sữa mẹ, bằng lời ru, tình thương của mẹ. Bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm là tượng đài tráng lệ về bà mẹ Việt Nam “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”. Nó nhắc nhớ mỗi chúng ta ghi sâu trong lòng tình cảm kính yêu và biết ơn mẹ hiền.

Chia sẻ: Tailieuhay.net

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *