Đề số 32 – 35 đề ôn luyện Tiếng Việt 4

Đề 32 – 35 đề ôn luyện Tiếng Việt lớp 4

I. ĐỌC HIỂU

KHOẢNG LẶNG

    Một buổi sáng, tôi thức dậy với một tâm trạng thật nặng nề và chán nản : cuộc sống dường như chẳng dành cho tôi chút ưu ái nào !

    Trên xe buýt, tôi đưa mắt nhìn qua băng ghế đối diện. Một cô bé có gương mặt xinh xắn và ánh mắt sáng ngời khẽ gật đầu chào tôi với nụ cười rạng rỡ. Khi xe đến trạm cuối cùng, mọi người nhanh chân bước xuống, chỉ riêng cô bé lê từng bước. Tôi bất giác nhìn lại và bàng hoàng nhận ra, cô bé đang phải di chuyển rất khó nhọc bằng đôi nạng gỗ.

    Sau một ngày làm việc căng thẳng, tôi tranh thủ ghé vào tiệm tạp hoá để mua thực phẩm, một cậu bé chừng mười tuổi đang giúp mẹ bán hàng. Cậu nghiêng đầu mỉm cười khi trao cho tôi túi hàng đã được buộc chặt. Trước khi bước ra, tôi âu yếm xoa đầu và hỏi tên. Cậu bé chỉ lắc đầu quầy quậy rồi đưa mắt nhìn mẹ như muốn nói điều gì.

    – Cháu nó không nói được cô ạ… – Người mẹ hạ giọng trả lời thay con.

    Khi băng qua đường, tôi bắt gặp một cậu bé đang đứng khép mình nơi góc tường, mắt chăm chú dõi theo những đứa trẻ khác chơi đùa trên hè phố, rồi khúc khích cười theo. Tôi đến bên cạnh và hỏi :

    – Sao cháu không cùng chơi với các bạn ?

    Cậu bé không trả lời, đôi mắt vẫn hướng về phía trước.Tôi chợt nhận ra cậu không thể nghe được lời tôi nói…

    Bấy giờ, tôi mới nhận ra mình thật diễm phúc vì được cuộc sống ban tặng một cơ thể lành lặn và khoẻ mạnh.

    Tôi tự nhủ sẽ sống thật xứng đáng với những điều may mắn mà cuộc sống đã ban tặng.

    Trong hành trình đầy thử thách của cuộc đời, tôi và các bạn, tất cả chúng ta đều luôn phải đối mặt với những khó khăn. Hãy sẵn sàng đón nhận những gì cuộc sống mang đến và cố gắng vượt qua mọi thử thách. Hãy tin yêu và đón nhận cuộc sống này bằng tâm hồn lạc quan và niềm tin mãnh liệt như những cô bé, cậu bé đáng yêu kia.

    Hôm nay, những cô bé, cậu bé ấy đã cho tôi một bài học về giá trị bản thân và ý nghĩa cuộc sống mà tôi may mắn có được.

(Phớt Niu)

Khoanh tròn chữ cái trước câu trả lời đúng : 

1. Cô bé mà tác giả gặp trên xe buýt có thái độ như thế nào với mọi người xung quanh ?

a. Luôn chào hỏi mọi người một cách thân thiện.

b. Gật đầu chào hỏi mọi người với nụ cười rạng rỡ.

c. Vui vẻ hỏi thăm mọi người.

2. Cậu bé giúp mẹ bán hàng trong tiệm tạp hoá có thái độ như thế nào với khách hàng ?

a. Luôn chào hỏi khách hàng.

b. Luôn tận tình hưống dẫn các mặt hàng mới.

c. Nghiêng đầu mỉm cười khi trao túi hàng đã được buộc chặt.

3. Cậu bé mà tác giả gặp trên hè phố đã “chơi” cùng các bạn như thế nào ?

a. Chơi đuổi bắt cùng các bạn.

b. Chăm chú theo dõi các bạn chơi đùa rồi khúc khích cười theo.

c. Chơi đánh trận giả cùng các bạn.

4. Những cô bé, cậu bé gặp trên đường đã để lại ấn tượng gì cho tác giả ?

a. Cho tác giả một bài học về giá trị bản thân và ý nghĩa cuộc sông.

b. Tác giả vô cùng thương xót các em bé và tự nhủ phải làm một điều gì đó cho các em.

c. Tác giả thấy mình thật may mắn quá vì không bị khuyết tật như các em.

5. Câu văn nào sau đây nói rõ nhất ý nghĩa của câu chuyện ?

a. Trong hành trình đầy thử thách của cuộc đời, tôi và các bạn, tất cả chúng ta đều luôn phải đối mặt với những khó khăn.

b. Hãy sẵn sàng đón nhận những gì cuộc sống mang đến và cố gắng vượt qua mọi thử thách.

c. Hãy tin yêu và đón nhận cuộc sống này bằng tâm hồn lạc quan và niềm tin mãnh liệt.

II.  LUYỆN TỪ VÀ CÂU

1. Tìm trạng ngữ chỉ thời gian trong các câu sau :

a) Một buổi sáng, tôi thức dậy với một tâm trạng thật nặng nề và chán nản : cuộc sống dường như chẳng dành cho tôi chút ưu ái nào.

b) Khi xe đến trạm cuối cùng, mọi người nhanh chân bước xuống, chỉ riêng cô bé lê từng bước.

c) Sau một ngày làm việc căng thẳng, tôi tranh thủ ghé vào tiệm tạp hoá để mua thực phẩm, một cậu bé chừng mười tuổi đang giúp mẹ bán hàng.

d) Khi băng qua đường, tôi bắt gặp một cậu bé có đôi mắt màu nâu đen tuyệt đẹp, đang đứng khép mình nơi góc tường, mắt chăm chú dõi theo những đứa trẻ khác chơi đùa trên hè phố, rồi khúc khích cười theo.

2. Tìm trạng ngữ chỉ nguyên nhân trong câu sau :

Tôi thật diễm phúc vì được cuộc sống ban tặng một cơ thể lành lặn và khoẻ mạnh.

3. Thêm trạng ngữ chỉ nguyên nhân vào các câu sau :

M :Tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào tôi muốnvì tôi có đôi chân mạnh khoẻ.

(Hoặc : Vì có đôi chân mạnh khoẻ, tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào

tôi muốn.)

a) Tôi có thể ngắm nhìn những người thân yêu và cuộc sống tươi đẹp xung quanh.

b) Tôi có thể lắng nghe những âm thanh tuyệt vời của cuộc đời.

c) Tôi hạnh phúc biết bao khi có thể nói những lời yêu thương dành cho người thân, bạn bè và sẻ chia với họ những trăn trở, vui buồn của cuộc sống.

III. CẢM THỤ VĂN HỌC 

    Trong bài viết trên, tác giả đã viết “… Tôi đã có tất cả. Vì thế tôi sẽ sống thật xứng đáng với những điều may mắn mà cuộc sống đã ban tặng.”

Theo em, “có tất cả” là có những điều gì ? “sống thật xứng đáng” có nghĩa là sống như thế nào ?

IV. TẬP LÀM VĂN

1. Tìm đoạn mở bài và kết bài trong bài văn sau. Cho biết đó là những cách mở bài, kết bài nào em đã học.

NAI TẮM SUỐI

    Những ngày hè nắng gắt, trời đất lặng gió, bạn hãy chịu khó ngồi yên ở một nơi khuất nẻo nào đó bên bờ suối, nơi quê hương của hươu nai thì bạn sẽ nhìn thấy những con nai, đàn nai xuống suối.

    Một con nai đầu đàn, cũng có thể là con dũng cảm nhất, mắt ngơ ngác nhìn tứ phía, vừa đi, vừa ngửi đất, lò dò từng bước một từ lưng sườn núi giữa rừng đi xuống suối nước. Khi con đầu đàn đi xuống khe nước được an toàn, nó liền kêu lên những tiếng man dại, con ngưòi rất khó bắt chước. Lập tức cả đàn đi nhanh xuống suối.

    Xuống đến suối, việc đầu tiên là chúng uống một bụng nước thật hả hê. Hai cánh mũi phập phồng, cái mõm đen kịt nhệu nhọ nhai, như lựa từng miếng nước ngon lành, đầy thích thú. Sau đó cả đàn từ từ lội xuống giữa suối. Bao giờ nước vừa xăm xắp chớm đến bụng thì chúng dừng lại. Những con nai con đứng cạnh mẹ, nước gần ngập đến lưng.

    Nai đứng giữa nước như vậy, người miền núi gọi là nai tắm suối. Chúng đứng rất lâu, nếu xung quanh hoàn toàn yên tĩnh. Cho đến khi chúng thấy mát lạnh, mới lên bờ. Cảm thấy khoan khoái vì mát mẻ, chúng liếm láp, âu yếm lẫn nhau.

(Theo Vi Hồng – Hồ Thuỷ Giang)

2. Sắp xếp lại trật tự các câu văn sau trong bài Điệu múa ba lê trên đồng cỏ :

a) Loài chim này trắng phau, mỏ đỏ, chân cao, có những cặp mắt đen huyền, viền vàng và mang trên đầu một lớp lông tơ mịn xanh nhạt như màu xanh da trời.

b) Bước vào mùa mưa, từng bầy thiên nga rời tổ nối đuôi nhau bay về ven các hồ nước đang mỗi lúc một dâng đầy trên cao nguyên Gia Lai, Đắk Lắk.

c) Thiên nga đậu trắng mặt hồ, màu trắng của nó nổi bật trên nền xanh của cỏ non, hoà với màu sáng của nước bạc long lanh dưới ánh nắng vừa chợt đến, chợt đi.

d) Chúng vừa múa vừa hát. Cặp chân vàng run rẩy tạo nên những đường nét khoẻ khoắn. Đôi cánh xoè trên mặt cỏ xanh xoay tròn, nom giống như một bông hoa ê-puy đẹp tuyệt vời, đến chim anh vũ bay qua cũng phải nghiêng đầu tìm chỗ đậu để thưởng thức.

e) Một ngày của thiên nga là một ngày vừa kiếm ăn vừa múa hát. Khi nào trời ngả về chiều, chúng mới dắt nhau bay về tổ, để lại “nền sân khấu” ven bờ hồ với những vạt cỏ non đã bị xéo nát.

g) Thiên nga thật là loài chim biết tự khoe mình vì vẻ đẹp và các động tác múa của mình. Nếu như bầy chim công múa rất dẻo, uyển chuyển nhịp nhàng, xứng đáng là nghệ sĩ của rừng xanh, thì tiếng thiên nga còn được coi là những giọng nữ cao tuyệt diệu, ngoài các động tác múa khoẻ khoắn của nó.

h) Rừng núi và đồng cỏ vào những ngày mưa đã trở thành một sân khấu lớn của các loài chim.

3. Viết một đoạn văn ngắn tả con vật mà em có dịp ngắm nhìn trong chuyến du lịch.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *