– Câu nói ở đề bài cho thấy hai biểu hiện dường như trái ngược nhau nhưng lại thống nhất, với nhau trong hổn thơ Xuân Diệu. Nhà thơ yêu đời, yêu cuộc sống (tha thiết, rạo rực) nhưng đồng thời cũng chán nản, hoài nghi, cô đơn băn khoăn. Hai tâm trạng ấy có mối quan hệ nhân quả với nhau, cẩn được giải thích – Khi giải thích ý kiến của Hoài Thanh, cần phân tích bài thơ Vội Vàng chứng minh cho các yéu cầu về nội dung cùa đề bài.
GIẢI THÍCH CÂU NÓI
Hoài Thanh nhận định về thơ Xuân Diệu với vẻn vẹn ba tú ha thiết, rạo rực, băn khoăn, nhưng đã khái quát lên được phong cách thơ rất yêu cuộc sống, tha thiết, rạo rực lại chính là con người hay băn khoăn, chán nản.
– Khi yêu cảnh hay yêu người tình, Xuân Diệu đều vồ vập, vội vàng vì trong khi đang yêu, Xuân Diệu cảm thấy đang mất.
– Tâm trạng chợt vui, chợt buồn, sợ thời gian trôi nhanh, tuổi xuân qua mau. Tất cả thành một nỗi ám ảnh trong lòng nhà thơ.
Vì sao lại có mâu thuẫn ấy? Hai nguyên nhân
– Về phía chủ quan: Xuân Diệu hay đòi hỏi sự hoàn mĩ – ý thức mạnh về cá nhân.
– Về phía khách quan: thực tế không phải bao giờ cũng đáp ứng được những mơ ước của nhà thơ.
Chính sự mâu thuẫn ấy đã làm thăng hoa vẻ đẹp thơ tình Xuán Diệu.
CHỨNG MINH
Vội vàng là bài thơ tiêu biểu cho tư tưởng, phong cách và quan điểm thấm mĩ của Xuân Diệu, gồm các nội dung sau.
1. Lòng thiết tha, đắm say, rạo rực của Xuân Diệu trước khu vườn trần thế đầy hương sắc, âm thanh, ánh sáng, cái ngon, vị ngọt.
– Với thư pháp nghệ thuật nhân hóa, liệt kê, Xuân Diệu đã vẽ ra một vườn “địa đàng” phong phú, hấp dẫn, quyến rũ. Âm thanh, hình ảnh như tràn vào thơ còn tươi nguyên và ấm nóng hơi thở nồng nàn của cuộc sống, tác động trực tiếp vào giác quan của người đọc.
– Điệp ngữ này đây vừa như là những tiếng reo vui, vừa như lời mời gọi tha thiết. Xuân Diệu muôn đem tất cá cái đẹp của trần thế mà trao tặng cho con người, cho cuộc đời.
– Những hình ảnh tuyệt mĩ, những cách so sánh táo bạo, mới mẻ:
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
Liên kết với hình ảnh tuần tháng mật cho ta thấy nỗi niềm khát khao yêu đương đến cháy bỏng của Xuân Diệu. Như vậy, Xuân Diệu quan niệm cái đẹp nằm ngay trong cuộc sống trần thế và con người là chuẩn mực của cái đẹp.
2. Tâm trạng buồn chán, băn khoăn
– Buồn chán trước thời gian trôi chảy (Xuân đến – qua, non – già, hết – mất), thời gian ăn cắp cuộc đời. Con người rất sợ thời gian ấy lại có giác quan rất nhạy với thời gian. Xuân Diệu lắng nghe bước đi của thời gian trong lòng sự vật. Một loại hình ảnh thiên nhiên hiện lên qua cảm thức thời gian:
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
– Triết lí về sự vô hạn của thời gian và sự hữu hạn cùa một kiếp người bằng một giọng dỗi hờn, bằng thủ pháp nghệ thuật đối lập:
Lòng tôi rộng – lượng trời chật
Xuân vẫn tuần hoàn – tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất – chẳng còn tôi
Và như thế vạn vật sẽ triệt tiêu, khắp sông núi than thầm tiễn biệt.
3. Nỗi buồn ấy không làm tê liệt ý chí sống, ngược lại kích thích lòng ham sống, khát sống, thèm sống, sông hết mình, sông ‘ tha thiết, rạo rực”.
– Xuân Diệu nảy sinh ý muôn dường như ngông cuồng: tắt nắng, buộc gió, muốn tước đoạt quyền tạo hóa dể điều khiển thiên nhiên cho thỏa khát vọng thèm muôn “vô biên”, “tuyệt đỉnh”, “tuyệt đinh”.
– Cuộc sống là sự vận động không ngừng nghỉ cho nên phải chạy đua với thời gian, phải chiến thắng thời gian mà sống trọn vẹn đế tận hưởng cho kì hết những lạc thú của cuộc đời.
– Đoạn cuối có thể coi là cao trào cảm xúc, nhịp thơ sôi nổi, dồn dập như nhịp đập của một trái tim rộn ràng. Điệp ngữ Ta muốn kết hợp với những động từ gây cảm giác mạnh ôm riết say, thâu, cắn và những từ ngữ bình dị mà vô cùng tinh tế như mơn mởn, chuếnh choáng, đã đấy, no nô đã góp phần làm rõ tính cách của một hồn thơ, sống hết mình, yêu vồ vập, cuồng si của Xuân Diệu.
Lối sống này một thời bị phê phán nhưng thật ra đây là một lôi sông tích cực, thấm nhuần tính nhân văn
Chia sẻ: Tailieuhay.net