Soạn bài Ôn tập về thơ siêu ngắn

Soạn bài Ôn tập về thơ siêu ngắn nhất trang 89 SGK ngữ văn 9 tập 2 giúp tiết kiệm thời gian soạn bài

Câu 2:

Trả lời câu 2 (trang 89 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

– 1945 – 1954: Đồng chí.

– 1955 – 1964: Đoàn thuyền đánh cá, Bếp lửa, Con cò.

– 1965 – 1975: Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ.

– Sau 1975: Ánh trăng, Mùa xuân nho nhỏ, Viếng lăng Bác, Nói với con, Sang thu.

– Các tác phẩm thơ kể trên đã tái hiện cuộc sống đất nước và hình ảnh con người Việt Nam cùng với những tình cảm gần gũi và bền chặt của con người.

Câu 3:

Trả lời câu 3 (trang 90 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

– Điểm chung: ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng, bất diệt.

– Điểm riêng:

Khúc hát ru…: Thống nhất yêu con với chí cách mạng của bà mẹ dân tộc.

Con cò: Khai thác từ hình tượng con cò trong ca dao hát ru để ca ngợi tình mẹ.

Mây và sóng (Ta-go): hoá thân vào lời trò chuyện hồn nhiên ngây thơ của em bé với mẹ, lấy hình ảnh thiên nhiên giàu ý biểu tượng.

Câu 4:

Trả lời câu 4 (trang 90 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

Hình ảnh người lính và tình đồng đội:

   – Đồng chí: người lính cách mạng đầu kháng chiến chống Pháp, xuất thân nông dân, chung chí hướng với tình đồng đội cao đẹp vượt qua gian khó.

   – Bài thơ về tiểu đội xe không kính: người lính lái xe, thế hệ trẻ thời chống Mĩ, dũng cảm, lạc quan, đầy ý chí.

   – Ánh trăng: người lính đã đi qua cuộc chiến khốc liệt, từng gắn bó với thiên nhiên, gợi lại kỉ niệm để nhắc nhở đạo lí sống tình nghĩa, thủy chung.

Câu 5: => 6

Trả lời câu 5 (trang 90 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

So sánh bút pháp sáng tạo hình ảnh thơ:

+ Bài Đồng chí sử dụng bút pháp hiện thực.

+ Bài Đoàn thuyền đánh cá chủ yếu dùng bút pháp tượng trưng phóng đại.

+ Phạm Tiến Duật sử dụng bút pháp hiện thực miêu tả cụ thể.

+ Nguyễn Duy chủ yếu dùng bút pháp gợi tả không đi vào chi tiết mà hướng tới ý nghĩa khái quát và biểu tượng.

Trả lời câu 6 (trang 90 SGK Ngữ văn 9, tập 2):

Phân tích một khổ thơ mà em thích trong các bài thơ đã học. 

Bài làm:

    Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ Bếp lửa được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang di du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kì niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước. Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. ở nơi đất khách quê người, bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:

                                      Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

                                      Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

                                      Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

Hình ảnh chờn vờn gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và tỏa sáng tâm hồn đứa cháu thơ ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua biết mấy nắng mưa. Từ đó hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nửa vòng trái đất nhưng dường như Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình yêu thương bà vô hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dòng sông với con thuyền nhỏ chở đầy ắp những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ quên được và cũng chính từ đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan tỏa toàn bài thơ.

Chia sẻ: Tailieuhay.net

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *