Từ Văn Miếu đi thuyền qua một đoạn uốn khúc hình chữ U của sông Hương, Khúc quanh này len lỏi qua một vùng núi trập trùng, cỏ cây xanh tươi là đến điện Hòn Chén.
ĐỀ 23: Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hoặc di tích của quê hương em. (Điện Hòn Chén)
DÀN Ý CHI TIẾT
I. MỞ BÀI
Từ Văn Miếu đi thuyền qua một đoạn uốn khúc hình chữ U của sông Hương, Khúc quanh này len lỏi qua một vùng núi trập trùng, cỏ cây xanh tươi là đến điện Hòn Chén.
II. THÂN BÀI
1. Nguồn gốc, xuất xứ
– Sử sách cho biết ngôi đền đã xuất hiện từ thời xa xưa.
– Theo nội dung một tờ sớ do vua Minh Mạng ban cho đền Ngọc Trán đề ngày 8 tháng 5 năm 1834 thì đền đã có sẵn tại chỗ dưới thời Gia Long.
– Vào tháng 3 năm 1832, vua Minh Mạng đã cho tu sửa và mở rộng ngôi đền. Sau đó hai năm, đền lại được trùng tu.
2. Kết cấu
– Một dãy núi thấp ăn từ chân Trường Sơn, chạy về phía đồng bằng Huế, bị một đoạn của dòng sông Hương chặn đầu lại ở tả ngạn.
– Cả dãy núi như bị dồn nén nguồn sinh lực ở đây tạo thành một ngọn núi có vẻ biệt lập, cây cối mọc xanh um, cheo leo trên bờ vực tham, đó là chỗ sâu nhất của bờ sông Hương.
– Người xưa đã chôn hòn núi Ngọc Trản ấy để dựng đền thờ.
– Trên đỉnh núi có một chỗ trùng xuống, đường kính vài mét, chung quanh có vòng đá dựng như giếng, hễ gặp mưa thì nước đọng lại trông giống cái chén đựng nước trong.
– Cho nên, từ xa xưa, hòn núi được đặt tên Ngọc Tràn Sơn (núi Chén Ngọn), dân gian gọi là Hòn Chén.
– Mặt bằng kiến trúc của toàn bộ ngôi đền không rộng, gồm điện thờ chính là Minh Kinh đài nằm ở giữa, mặt hướng ra sông, bên trái là nhà Quan Cư, Trịnh Cát Viện, Chùa Thánh, bên phải là dinh Ngũ Vị Thánh Bà, bàn thờ các Quan, động thờ ỏng Hạ Ban (tức ông Hổ – con cọp), am Ngoại Cảnh.
– Dưới bờ sông, cuối đường bên trái là am Thuỷ Phủ. Trên mặt bằng kiến trúc ấy, còn có một số bệ thờ và am nhỏ khác nằm rải rác đó đây như am cô Ngọc Lan, am Trung Thiên.
3. Ý nghĩa
– Ngày nay, điện Hòn Chén được nhiều người biết đến không nhưng vì đó là một di tích tôn giáo mà còn là một kiến trúc cảnh quan nữa.
– Công trình kiến trúc tôn giáo ấy đã được người xưa lồng vào khung cảnh thơ mộng hữu tình của núi sông xứ Huế.
III. KẾT BÀI
– Điện Hòn Chén là một trong những cảnh quan tuyệt đẹp của Việt Nam.
– Chúng ta cần phải trân trọng và giữ gìn nó trường tồn cùng thời gian.
BÀI VIỂT THAM KHẢO
Từ Văn Miếu đi thuyền qua một đoạn uốn khúc hình chữ u của sông Hương, khúc quanh này len lỏi qua một vùng núi trập trùng, cỏ cây xanh tươi là đến điện Hòn Chén.
Điện Hòn Chén là nơi ngày xưa người Chàm thờ nữ thần Po Nagar, sau đó, người Việt theo Thiên Tiên Thánh Giáo tiếp tục thờ bà dưới danh xưng Thánh mẫu Thiên Y A Na. Từ năm 1945, Liễu Hạnh Công chúa, tức Vân Hương Thánh Mẫu. gốc gác từ miền Bắc, cũng được đưa vào thờ ở đây. Ngoài ra, tại điện Hòn Chén, người ta còn thờ Phật, thờ Thánh Quan Công và hơn 100 vị thần thánh khác thuộc vào hàng đồ đệ của các thánh thần nói trên. Vua Đồng Khánh cũng là một trong những đồ đệ ấy.
Thiên Tiên Thánh Giáo là một tôn giáo bình dân địa phương, không thấy có kinh điển chính thức, lịch sử rất mơ hồ, mang đầy tính huyền thoại được truyền miệng từ đời này qua đời khác, chẳng thấy sử sách nào ghi chép rõ.
Về sự tích Liễu Hạnh Công chúa, chỉ thấy một quyển kinh không chính thức xuất bản ở Sài Gòn năm 1964 Vân Hương Chánh Nhất Vị Thánh Mầu, Liễu Hạnh Công chúa do một số tín đồ của bà viết và ấn hành, trong đó có nói rằng bà đã giáng sinh ba lần, mà lần đầu tiên là vào năm 1434 ở tỉnh Nam Định. Cuối cùng bà hiển thành vào năm 1635 tại tỉnh Thanh Hoá. Riêng ở miền Trung, vào năm 1856. khi đi công cán qua tỉnh Khánh Hoà, Phan Thanh Giản đã dựa vào truyền thuyết của địa phương viết một bài văn bia và cho khắc vào bia đá ở Tháp Bà tại Nha Trang, nơi thờ nữ thần Po Nagar của người Chàm. Câu chuyện pha trộn nửa Chăm nửa Việt, đại khái như sau: Thiên Y A Na là con của Ngọc Hoàng Thượng Đế giáng sinh làm một cô bé đêm đêm đến hái trộm dưa trong vườn một cặp vợ chồng già không có con tại làng Đại An, tỉnh Khánh Hoà. Sau khi bắt được cô, thấy kháu khỉnh, họ nhận làm con nuôi. Nhưng, một hôm trời lụt, nhớ cảnh bồng lai, cô gái thần tiên tàng hình vào một thân cây kỳ nam trôi ra biển, rồi tấp vào bờ Trung Quốc. Một Hoàng tử được vua cha cho cưới nàng làm vợ. Hai người sinh được một trai, một gái. Nhưng nàng lại thấy thân cây ấy trôi về quê cũ. Khi trở lại làng xưa. cha mẹ nuôi đã chết từ lâu, nàng lập đền thờ tại núi Đại An. Sau khi mẹ con bay vẻ tiên cảnh, nàng thường xuất hiện nhiều nơi để cứu nhân độ thế.
Theo truyền thuyết địa phương, một trong những nơi mà người đàn bà thần tiên ấy xuất hiện giúp đời là núi Ngọc Trản thuộc làng Hải Cát ở Thừa Thiên. Dân làng liền dựng lên một ngôi đền tại hòn núi này để thờ bà.
Sử sách cho biết ngôi đền đã xuất hiện tự thời xa xưa.
Theo nội dung một tờ sớ do vua Minh Mạng ban cho đền Ngọc Trản đề ngày 8 tháng 5 năm 1834 thì đền đã có sẵn tại chỗ dưới thời Gia Long.
Vào tháng 3 năm 1832, vua Minh Mạng đã cho tu sửa và mở rộng ngôi đền. Sau đó hai năm, đền lại được trùng tu.
Từ năm 1883 đến năm 1885, vì những éo le của lịch sử, vua Đồng Khánh chờ đợi mãi vẫn chưa được nối ngôi cha nuôi là vua Tự Đức. Ông nhờ mẹ là bà Kiên Thái Vương lên đền Ngọc Trản cầu đảo và hỏi Thánh Mầu Thiên Y A Na xem mình có làm vua được không. Mầu cho biết ông sẽ toại nguyện. Bởi vậy, sau khi tức vị năm 1886, vua Đồng Khánh liền xây lại đền này một cách khang trang, làm thêm nhiều đồ tự khí để thờ và đổi tên ngôi đền thành ra Huệ Nam Điện để tỏ lòng biết ơn Thánh Mầu. Huệ Nam nghĩa là ban ân huệ cho nước Nam, vua Nam. Có một điều kỳ lạ là chính vua Đồng Khánh đã đưa cuộc lễ hàng năm tại đây vào hàng Quốc lễ và tự nhận mình là đồ đệ của Thánh Mầu, mặc dù nhà vua chỉ gọi Thánh Mẫu bằng “chị”. Theo nguyên tắc xưa, ông vua nào cũng đứng trên các thánh thần trong cả nước, nhưng ở đây vua Đồng Khánh lại hạ mình xuống làm em của Thánh Mầu. Hiện nay, trong đền vẫn còn thờ vài bức tranh ảnh của nhà vua.
Ngày nay, điện Hòn Chén được nhiều người biết đến không những vì đó là một tích tôn giáo mà còn là một kiến trúc cảnh quan nữa. Công trình kiến trúc tôn giáo ấy đã được người xưa lồng vào khung cảnh thơ mộng hữu tình của núi sông xứ Huế.
Một dãy núi thấp ăn từ chân Trường Sơn, chạy về phía đồng bằng Huế, bị một đoạn của dòng sông Hương chặn đầu lại ở tả ngạn. Cả dãy núi như bị dồn nén nguồn sinh lực ở đây, tạo thành một ngọn núi có vẻ biệt lập, cây cối mọc xanh um, cheo leo trên bờ vực thẳm, đó là chỗ sâu nhất của bờ sông Hương. Người xưa đã chôn hòn núi Ngọc Trản ấy để dựng đền thờ. Trên đỉnh núi có một chỗ trũng xuống, đường kính vài mét, chung quanh có vòng đá dựng như giếng, hễ gặp mưa thi nước đọng lại trông giống cái chén đựng nước trong. Cho nên, từ xa xưa, hòn núi được đặt tên Ngọc Trản Sơn (núi Chén Ngọn), dân gian gọi là Hòn Chén.
Trong một tờ thần sắc ban cho đền này vào năm 1886, vua Đồng Khánh đã ví toàn cảnh thiên nhiên ở đó như hình thể một con sư tử đang nằm thò đâu xuống sông uống nước.
Khoảng 10 công trình kiến trúc xinh xắn của ngôi đền đều nằm ở lưng chừng sườn đông – nằm thoai thoải giữa ngọn núi, ẩn mình dưới bóng râm của một khóm rừng cổ thụ tán lá sum suê. Những hệ thống bậc cấp chạy từ đền cao xuống tận bến nước trong xanh. Mặt sông phẳng lặng như gương, cho kiến trúc nghiêng mình soi bóng. Du thuyền cập bến, đứng nhìn lên, khách dễ tưởng mình đang lạc vào một chốn thần tiên.
Mặt bằng kiến trúc của toàn bộ ngôi đền không rộng, gồm điện thờ chính 12 Minh Kinh đài nằm ở giữa, mặt hướng ra sông, bên trái là nhà Quan Cư, Trịnh Cát Viện, Chùa Thánh, bên phải là dinh Ngũ Vị Thánh Bà, bàn thờ các Quan, động thờ ông Hạ Ban (tức ông Hổ – con cọp), am Ngoại Cảnh. Dưới bờ sông, cuối đường bên trái là am Thuỷ Phủ. Trên mặt bằng kiến trúc ấy, còn có một số bệ thờ và am nhỏ khác nằm rải rác đó đây như am cô Ngọc Lan, am Trung Thiên.
Đáng để ý nhất trong tất cả vẫn là Minh Kinh đài, xây dựng năm 1886, dưới thời vua Đồng Khánh, chia làm ba cung (theo thứ tự từ cao xuống thấp, từ sau đến trước, căn cứ vào chức năng thờ phụng). Minh Kinh Cao đài Đệ Nhất Cung: còn gọi là Thượng Cung hay Thượng Điện, chia làm hai tầng. Tầng trên thờ Thánh Mẫu Thiên Y A Na, Thánh Mầu Văn Hương, ảnh vua Đồng Khánh và một số thần thánh cao cấp khác trong tôn giáo này; tầng dưới cùng chỗ tiếp khách và nơi ở của người thủ từ.
Minh Kinh Trung đài Đệ Nhị Cung: còn gọi là cung Hội Đồng thờ hàng chục tượng thần thánh khác nhau, có cả tượng phật; và dùng làm nơi thiết trí các đồ thờ, để rước sắc trong những dịp lễ lớn: Vòng Cung Nghinh Mầu, Phụng Liễn, Long Đình.
Minh Kinh Tiểu đài Để Tam Cung: còn gọi là Tiền Điện, có xây một hương án lớn, hai bên đặt trống, chuông, là chỗ cử hành tế lễ. Nơi cúng lạy của khách hành hương còn được nổi rộng thêm bằng một mái hiên và cái sân ở mặt trước toà nhà.
Trên bờ nóc, bờ quyết của Minh Kinh Đài cũng như các công trình kiến trúc; khác ở chung quanh, hỉnh ảnh con phụng được dùng nhiều để trang trí vì con phụng tượng trưng cho đàn bà, ở đây là chỗ thờ nữ Nó cùng được dùng để trang trí rất nhiều trên các đồ tự khí.
Đứng ở các hệ thống bậc cấp dẫn xuống bến để nhìn ra viên cảnh trước mặt người ta thưởng thức được một bức tranh sơn thuỷ vẽ bằng gam màu xanh với cả; độ đậm nhạt khác nhau của dòng sông, làng mạc, núi non hàng hàng lớp lớp trải rộng, vươn dài. Gần nhất bên phải là hòn núi Kim Phụng uy nghi. Ngay bên trái đền, vách đá cheo leo trên bờ dốc vực thẳm, cùng với tượng cọp trừng mắt đứng nhìn dưới vòm động thâm u, dường như được dùng làm mối đe doạ thường xuyên đối với những người yếu bóng vía và làm tăng thêm vẻ linh thiêng thần bí của thần thánh đối với “con tôi”.
Đặc biệt, nếu khi ở Hổ Ọuyền bên kia sông Hương, con cọp phải đưa ra đấu trường để bị tiêu diệt, thì ở điện Hòn Chén này sông, con cọp lại được thờ cúng kính cẩn như một vị thần.
(Theo Nhiều tác già, Hỏi đáp về Văn hóa cố đô Huế, 2009)
Nguồn: Phát triển kỹ năng làm bài văn chọn lọc lớp 6, 7, 8, 9 – Thầy Nguyễn Phước Lợi
Chia sẻ: Tailieuhay.net