Đó là ngày thứ mười lăm của tuần trăng thứ tám, trên mặt đất xảy ra những điều kỳ diệu lạ lùng và cái không thể trở thành có thể. Trên trời, một vầng trăng vàng lớn lơ lửng.
Anh thợ săn Lan-fou xách giỏ lên núi cao nhặt phân lợn lòi. Sau khi đã leo một quãng dài vất vả, anh đến đỉnh núi, phóng tầm mắt nhìn về phía thung lũng thường vẫn tối đen, mệt đứt hơi. Trước mặt anh, như trong tầm tay, thung lũng ngập trong ánh trăng vàng rực rỡ. Lan-fou bấm vào bàn tay. Có phải thật là ánh sáng không, hay là – anh không thể tin – một biển tiền đuy-ca vàng?
“Nhưng chúng ở đâu ra? Và ai đã vất chúng xuống mặt nước như thế?” Lan-fou băn khoăn tự hỏi, đưa mắt nhìn xung quanh. Trên mặt biển vàng chợt có cái gì động đậy. Nhìn kĩ, Lan-fou thấy một con thuyền vàng đang tiến thẳng về phía mình và trên con thuyền vàng – Lan-fou dụi mắt – trên con thuyền, quả vậy, không phải là mơ, một người đàn bà đẹp. Con thuyền tiến thẳng về phía anh.
– Ta là tiên mặt trăng, bà cất giọng ngọt ngào. Ta đợi anh. Anh đến rất đúng lúc. Đêm nay các kho tàng của trái đất đều mở. Mỗi người đến thung lũng này đều nhận được phần của mình. Dứt lời, bà tiên đưa cho Lan-fou ba đuy-ca vàng.
Lan-fou cảm ơn và sung sướng quay về. Nhưng mới đi được mấy bước, anh nảy ra ý nghĩ: “Cả một biển tiền đuy-ca mênh mông thế này! Ta có thể hỏi xin thêm một ít nữa!” Anh quay trở lại chỗ bà tiên đang bơi thuyền trên biển vàng.
– Tiên mặt trăng, tôi nghèo lắm, xin bà cho tôi ba đuy-ca nữa, Lan-fou nài nỉ.
Bà tiên mỉm cười, nhúng tay xuống biển, lấy lên cho Lan-fou ba đuy-ca lấp lánh.
Anh thợ săn trẻ cảm ơn và quay gót trở về nhà. Đi dọc biển vàng, anh nghĩ: “Sáu đuy-ca thì có nghĩa lý gì, xung quanh đây có hàng ngàn, hàng ngàn. Ta không quay lại hỏi xin bà tiên nữa, ta sẽ lấy đầy giỏ này. Ta sẽ sống không phải lo đến ngày mai”.
Đi đến một tấm ván bắc qua suối làm cầu, anh sực tỉnh: “Một giỏ tiền thì có nghĩa lý gì. Nếu ta mang về nhà đầy một ủng tiền thì sao nhỉ? Phải! Ta sẽ không mất thì giờ với cái giỏ nữa.” Nghĩ là làm: Anh vứt cái giỏ xuống suối, chạy thật nhanh về nhà.
Về đến nhà, anh lấy một chiếc ủng và trở lại con đường lên núi. “Nhưng chỉ có độc một chiếc ủng thì có nghĩa lý gì?” Anh nghĩ bụng. “Thật là tiếc nếu bỏ lại bấy nhiêu đuy-ca lấp lánh, tốt nhất là gọi vợ ta, để cô ấy đem theo chiếc ủng thứ hai.”
– Nhanh lên, mình, dậy nhanh! Anh lay gọi vợ, mắt sáng rực.
Lan-fou chạy như điên lên núi, chị vợ theo sau, nhằm hướng biển đuy-ca. Đến cái cầu, anh tự nhủ: “Hai chiếc ủng, chẳng có nghĩa lý gì cả. Tốt nhất là gọi bố vợ và mẹ vợ ta đến giúp một tay, mang theo chiếc xe bò.” Anh vội vàng quay trở về, theo sau vẫn là chị vợ. Họ chạy về gọi bố mẹ vợ đến giúp. Cả bốn người chạy lên núi, mệt tưởng đứt hơi. Họ vừa chạy vừa thở hổn hển, nhưng kia rồi, họ đã gần đến đỉnh núi, ngay sau đỉnh núi thôi sẽ là biển đuy-ca trải dài vô tận. Nhưng, gì thế này? Mặt trăng như mờ dần… mờ dần, đỉnh núi tràn ngập ánh sáng hồng, rồi ánh sáng đỏ của mặt trời mới mọc tràn ngập khắp.
Chết lặng vì kinh ngạc, Lan-fou đứng nhìn thung lũng. Biển đuy-ca vàng đã biến mất.
– Đuy-ca đâu? Chị vợ kêu lên.
– Đuy-ca đâu cả rồi? Bố mẹ vợ kêu lên.
– Biến mất cả rồi, Lan-fou hổn hển trả lời. Chúng đã biến mất không thể cứu vãn được rồi. Chúng sẽ không bao giờ trở lại. Anh thuật lại cho mọi người nghe anh đã nhận được của bà tiên mặt trăng ba đuy-ca vàng như thế nào, rồi ba đuy-ca nữa, kế đó anh đã về nhà với một giỏ đầy vàng mà anh đã vứt xuống suối ra sao.
Tràn đầy hy vọng, họ vội vàng đi về phía chiếc cầu ván nhỏ. Dòng nước hung dữ cuộn xoáy trong lòng suối, chỉ thấy có đá, không còn dấu vết của chiếc giỏ.
– Thật tiếc chiếc giỏ, Lan-fou than thở, giờ tôi chỉ còn cách đan một chiếc giỏ khác!
Mây trắng tìm chồng
Biển Jou mênh mông và cồn sóng. Hiếm khi gió để cho biển lặng. Nhưng dẫu gió quất biển mạnh như thế nào, rạch sóng sâu như thế nào, chưa bao giờ người ta nhìn thấy đáy biển, đến tận ngày nay cũng vậy.
Người ta kể rằng xa xưa lắm, có một vương quốc bên bờ biển Jou, do một ông vua hùng mạnh trị vì. Vua chỉ huy mười thượng thư, mỗi thượng thư chỉ huy mười đại tướng, mỗi đại tướng chỉ huy một ngàn lính được toàn dân trong vương quốc tuân lệnh. Trong vương quốc không ai dám nói hay làm trái những gì bề trên đòi hỏi. Ngay chính công chúa cũng không thể làm điều nàng muốn. Đến tuổi các cô gái khác nghĩ đến chuyện lấy chồng, nàng đẹp tuyệt trần, khôn ngoan và tốt bụng. Rất nhiều chàng trai từ khắp nơi đến cầu hôn. Trong vòng hai năm, nhà vua lần lượt từ chối hết người cầu hôn này đến người cầu hôn khác. Trong khi đó công chúa ở trong tòa lầu nhỏ sơn đỏ kế bên vườn thượng uyển, nàng lặng lẽ gảy cây đàn luýt hình bán nguyệt, mắt mơ màng nhìn ra xa, nơi có một ngọn núi cao, đỉnh vờn mây trắng. Người ta gọi đó là Núi Mây.
Trên đỉnh núi ấy có một người duy nhất không sợ uy lực của nhà vua. Quân lính của nhà vua né tránh chàng, ngay cả các mưu sĩ của nhà vua cũng không dám làm chàng nổi giận. Thiên hạ thầm cảm phục, họ kể đã trông thấy chàng cưỡi một con ngựa trắng, từ đó họ gọi chàng là “Thủ lĩnh Albin”.
Một hôm, nhà vua bảo công chúa:
– Cha vừa đuổi một kẻ cầu hôn của vương quốc láng giềng. Thái độ hắn ta quá khúm núm. Hắn ta phải biết rằng: đối với cha thì danh tiếng hay sức mạnh cũng thế mà thôi. Cha khinh bỉ một đứa con rể sợ cha.
– Nếu chàng ta không sợ cha thì sao ạ? Công chúa dịu dàng hỏi.
– Một đứa con rể không sợ cha, cha căm ghét. Cho đến nay chưa kẻ nào sống sót nếu cha nổi giận.
Lòng dạ rối bời, công chúa trở lại tòa lầu của nàng, lấy cây đàn luýt ưa thích ra gảy.
Cây đàn luýt hát:
“Hỡi người sống trên Núi Mây, hãy đến và mang em đi với chàng! Mắt chàng là những áng mây trắng đáng yêu trên bầu trời mùa hạ, mắt chàng là những áng mây đen hung dữ trong bão táp điên cuồng. Móng ngựa của chàng gõ nhịp chắc nịch trên những con đường màu trắng của bầu trời, con tuấn mã của chàng hí vang khi trời tối sầm. Quân lính chạy trốn trước chàng và trái tim bọn chỉ huy run rẩy. Đến nhanh đi, hỡi chàng, con người em hằng mơ tưởng, hãy đến và mang đi nàng công chúa tội nghiệp!”
– Cây đàn luýt của nàng hát bài gì vậy, thưa công chúa? Từ trên cao, đột nhiên vẳng xuống một tiếng chim lảnh lót, vui tươi. Ngạc nhiên, công chúa ngẩng đầu lên và trông thấy một con khướu nhỏ.
– Em đã nghe rõ rồi đấy, công chúa đỏ mặt trả lời.
– Em sẽ đi nói với chàng! Con khướu cười phá lên.
– Không, xin đừng nói với chàng! Công chúa van xin, nhưng con khướu đã sải cánh và biến mất.
Đến đỉnh Núi Mây, con khướu lượn ba vòng trên đầu Thủ lĩnh Albin.
– Có chuyện gì thế, khướu của ta? Chàng hỏi.
– Lên ngựa mau, đi tìm công chúa. Nàng đang chờ chàng! Con khướu liến láu, ra vẻ mệt nhoài.
– Mi nói về công chúa nào? Albin sửng sốt.
– Thì công chúa của chúng ta chứ còn ai, con khướu giải thích, điềm nhiên chuốt mượt bộ lông. Nàng công chúa của vương quốc hùng mạnh bên bờ biển Jou. Nàng công chúa kiều diễm nhất, dễ thương nhất mà tôi từng biết.
Albin suy nghĩ một lát, rồi hỏi lại vẻ nghi hoặc:
– Nàng sẽ lấy ta làm chồng ư?
– Cố nhiên là tôi không bịa ra, con khướu phật ý. Nhưng cha nàng là một ông vua hùng mạnh và độc ác, ai ai cũng sợ.
– Ta không sợ, Albin kết luận. Chàng thúc con ngựa trắng trung thành và, con khướu chưa kịp chuốt chiếc lông vũ cuối cùng, chàng đã mất hút phía chân trời.
Đúng lúc đó, công chúa chuẩn bị về cung điện. Nàng thở dài, buông cây đàn luýt và ra khỏi tòa lầu. Đột nhiên, một cơn gió thổi mạnh, dường như có một kị sĩ đang lao đi trong mây. Tim nàng như ngừng đập. Từ trên trời một con ngựa trắng đáp xuống. Albin xuống ngựa, chầm chậm tiến lại gần công chúa. Chàng cũng thấy tim mình thắt lại vì rung động trước một thiếu nữ xinh đẹp đến thế và mảnh mai đến thế.
– Nàng có thuận lấy ta làm chồng không, thưa công chúa? Chàng hỏi, giọng trầm ấm.
Công chúa hướng ánh mắt dịu hiền về phía chàng và Albin mỉm cười với nàng.
– Nàng lại đây! Và nàng công chúa đến cạnh chàng trẻ tuổi. Nàng sẽ không hối tiếc chứ? Nàng không nhớ cung vàng điện ngọc chứ? Chàng gặng hỏi. Công chúa chỉ cúi đầu không nói gì. Albin bế nàng trong tay, nhảy lên con ngựa thần phong. Thoáng chốc không ai còn trông thấy họ hay nghe nói gì về họ nữa.
Bấy giờ, trong cung vua, người ta phát hiện thấy công chúa đã biến mất, quả là một màn náo động ra trò! Nhà vua phái quân lính lùng sục khắp mọi nơi, nhưng cứ như thể mặt đất đã nuốt chửng con gái ông. Ngày cũng như đêm, quân lính quần thảo dọc ngang vương quốc, mãi cho đến ngày một sứ giả trở về báo tin đôi khi người dân ở chân Núi Mây có nghe thấy tiếng hát dịu dàng của công chúa vẳng xuống từ trên những đám mây trắng.
– Tâu Hoàng thượng, chắc hẳn Thủ lĩnh Albin đã bắt công chúa của chúng ta đi! Sứ giả hổn hển thông báo.
Một mối lo sợ kinh hoàng bao trùm lên đám quần thần. Nhà vua nổi cơn thịnh nộ điên cuồng. Tuy nhiên, ông cũng sợ phải thách đấu tay đôi với một chiến binh sáng giá như Albin. Ông lấy thế làm nhục nhã, đến nỗi ngày cũng như đêm ông không thể nghĩ gì khác hơn tìm cách tiêu diệt Albin. Ông vò đầu bứt tóc. Ông bắt tất cả các mưu sĩ, các tướng lĩnh, cả các sứ giả cũng phải làm như thế. Cuối cùng, một ngày, một triều thần của ông nảy ra ý:
– Nếu không thể làm cách nào khác, đành phải dùng mưu mẹo vậy, tâu hoàng thượng, tài trí của Người sẽ đánh giá đúng lời khuyên của thần, lão ta rạp mình tâu lên nhà vua.
– Nói nhanh điều ngươi khuyên ta, nhà vua nôn nóng phán. Lão mưu sĩ trình bày kế hoạch của mình.
Thế là, ngay hôm đó, các sứ giả của triều đình được phái đến Núi Mây. Sau mấy ngày đường, các sứ giả đến đỉnh Núi Mây. Albin ra gặp họ. Trông thấy vóc dáng cường tráng và kiên nghị của chàng, những người can đảm nhất trong các sứ giả cũng phải rùng mình. Họ kính cẩn cúi chào. Sứ giả cao tuổi nhất lên tiếng:
– Thưa đức ông cao quý, chúng tôi đến mang theo một tin tốt lành. Đức vua yêu quý của chúng ta nghe nói nhiều về lòng dũng cảm của ngài, nên Người muốn được biết ngài. Người mời ngài, với tư cách là phò mã, đến thăm cung điện của Người.
– Thế nào, Người không giận ta ư? Albin hỏi.
– Lúc đầu người cũng bực tức, nhưng nay thì cơn giận đã qua, một sứ giả tiếp lời. Người buồn héo mòn vì con gái mình.
– … Người những mong được gặp lại công chúa, sứ giả thứ ba dấn thêm.
– Cái này thì không thể được, Albin dứt khoát. Nhưng các sứ giả không để cho chàng đuổi khéo.
– Nhà vua buồn phiền lắm, sứ giả cao tuổi hạ giọng, đầu hơi gục xuống, ra vẻ buồn chán.
– Hoàng hậu phát ốm vì đau khổ, người thứ hai vội phụ họa.
– Bà sẽ chết vì buồn phiền, người thứ ba than vãn.
– Tình trạng này sẽ chẳng kéo dài được bao lâu, sứ giả thứ tư của nhà vua rầu rĩ bổ sung.
Tất cả những chuyện này chẳng làm Albin vừa lòng. Chàng quay về phía công chúa, thấy rằng nàng đang khóc.
– Nàng có muốn về thăm vua cha và mẫu hậu không? Albin quay sang hỏi công chúa. Công chúa gật đầu ưng thuận. Albin quay sang các sứ giả:
– Được. Chúng ta sẽ đi theo các ông.
Tại cung điện của nhà vua, một cuộc đón tiếp trọng thể đã được chuẩn bị sẵn sàng. Đích thân nhà vua ra đón công chúa cùng phò mã. Công chúa ôm hôn mẫu hậu. Nhà vua vồn vã dẫn Albin vào phòng tiệc. Quần thần uống rất nhiều chúc mừng cho thắng lợi của dũng sĩ Albin và cuộc hôn nhân của chàng với nàng công chúa xinh đẹp. Albin sung sướng vì cuộc đón tiếp nồng nhiệt, uống cạn hết cốc này đến cốc khác, rốt cuộc rượu đánh gục chàng, và chàng ngủ thiếp đi. Nhà vua chỉ chờ có thế. Ông ra hiệu cho hai thuật sĩ xuất hiện trong phòng. Chỉ nháy mắt, chúng đã trói gô Albin bằng xích sắt.
Công chúa kêu khóc thảm thiết nhưng, theo lệnh nhà vua, bốn tên hầu giữ chặt lấy nàng mang về tòa lầu nơi vườn thượng uyển, nhốt lại.
Các thuật sĩ ném Albin bị trói gô xuống đáy biển Jou. Chúng niệm một câu thần chú kinh khủng để không bao giờ biển cạn, và không bao giờ Albin có thể thoát ra.
Nàng công chúa tội nghiệp khóc hết nước mắt trong tòa lầu tù hãm. Không một ai đoái hoài đến nàng. Nhưng khi yên tĩnh đã trở lại trong cung đình, cả lâu đài hoàng gia chìm trong giấc ngủ nặng nề, bà hầu phòng cũ của công chúa tìm được chìa khóa cửa lầu và giải thoát cho nàng.
– Công chúa, xin hãy chạy mau! Chúng đã xích Albin của nàng và ném chàng xuống biển Jou. Ai biết chúng còn âm mưu gì nữa để hại nàng. Già sẽ mở cánh cửa bí mật ở cuối vườn. Hãy trốn đi thật xa để vua cha không thể tìm lại được nàng!
Nhưng khi biết tin tai họa đã xảy đến cho Albin, công chúa chạy ra biển Jou trước nhất. Nàng vươn tay về phía những con sóng tối đen, hết sức gọi tên Albin nhưng không có tiếng trả lời. Nàng khóc than, van xin thần linh và trời đêm trả lại cho nàng người chồng yêu quý, nhưng trời đêm vẫn câm lặng, và mặt trăng vô cảm vẫn soi bóng nước.
Khi phương đông tỏa sáng ánh hồng, công chúa quỳ xuống cát biển. áo nàng đẫm nước mắt. Chợt một cánh chim chạm nhẹ vào tóc nàng và một giọng quen thuộc lảnh lót trong sương sớm. Chính là con khướu.
– Khóc lóc chẳng ích gì, công chúa ạ! Nàng hãy mau đi hỏi khắp nhân gian xem có cách nào kéo được chàng Albin ra khỏi làn sóng chua cay này.
– Em có lý, chim khướu xinh ạ, công chúa nói với con chim lòng đầy biết ơn. Nàng bỗng cảm thấy chứa chan hy vọng và tràn đầy quyết tâm. Không chờ đợi gì nữa, nàng lập tức lên đường. Ngày này qua ngày khác, tuần này qua tuần khác, nàng lang thang khắp thế gian, leo lên những đỉnh núi xa lạ, mải miết giữa những rừng bụi hoang vu, lạc bước trong rừng sâu, bơ vơ, quần áo tơi tả, chịu đựng đói khát. Đến đâu, gặp ai, nàng cũng hỏi xem có cách gì cứu được chồng nàng, bị bọn thuật sĩ ném xuống biển Jou. Dân chúng phẫn nộ thay cho nàng, khóc thương nàng, cho nàng cái ăn và chỗ ở trọ, nhưng không một ai có thể giúp nàng cứu Albin.
Nàng công chúa tội nghiệp không chịu nổi nữa, nàng kiệt sức, mệt nhoài, gày rộc, vẫn không gặp được người nào có thể cho nàng một lời khuyên có ích. Cuối cùng, một ngày nọ, nàng trông thấy một cụ già ngồi trên một cột mốc dưới gốc cây. Nàng lễ phép cúi chào cụ và hỏi cụ câu nàng đã hỏi hàng ngàn người khác.
Cụ già nhìn nàng chăm chú, bắt gặp ánh mắt đầy lo âu trên khuôn mặt xinh đẹp, cụ động lòng thương.
– Con nói chàng ở đáy biển Jou sao? Cách duy nhất con có thể đến với chàng là tát cạn biển.
Công chúa oà khóc nức nở.
– Nào, nào, cụ già an ủi nàng, nước mắt không giải quyết được gì cả. Con sẽ chỉ làm khổ mình và chẳng giúp được gì cho người con yêu. Gượm đã, ta vừa nảy ra một ý. Phía đông nơi chúng ta đang đứng đây, đâu đó bên trong những quả núi kia, là nơi Thần Gió ở. ít ra thì người ta cũng nói thế. Vị thần ấy có thể sẽ cho con mượn gió của ông ta. Ta nghe nói ông ta đựng gió trong bảy cái chai. Nếu ông ta cho con mượn thì tốt quá! Con có thể mang đến bờ biển, mở tất cả các nút chai cùng lúc, và thế là đủ!
– Cụ ơi, gió ấy chống sao được biển? Công chúa thở dài.
– Chống sao được ư? Rồi con sẽ thấy! Gió sẽ lay động biển, làm biển sủi bọt, cuốn đi hàng ngàn giọt nhỏ, tóm lại – gió sẽ làm biển cạn khô. Biển sẽ không còn lại gì ngoài cát, cụ già phấn khích nói. Con có thể hình dung tất cả gió của trái đất làm được gì nếu chúng thổi vào cùng một chỗ, trong cùng một lúc không?
Công chúa rất hài lòng. Nàng cảm thấy đột nhiên có đủ sức mạnh bằng mười cô công chúa mảnh mai như nàng. Vô cùng cảm kích, nàng nồng nhiệt tạ ơn cụ già và đi thẳng đến dãy núi phía đông.
Nàng đi rất lâu mới đến được dãy núi, lâu hơn nữa, qua một nơi cảnh vật vắng vẻ, hoang vu, vượt biết bao vực thẳm, thung sâu, mới tới được đỉnh núi nơi Thần Gió ở. Nơi đây, gió quất mạnh, gào thét, hú bên tai, không cho nàng tiến lên. Cuối cùng, gom hết sức lực còn lại, công chúa leo lên tới đỉnh. Một cụ già to lớn, râu dài bạc trắng, ngồi tựa lưng vào một tảng đá, bên cạnh cụ là bảy cái chai nút kín.
– Con tìm gì ở đây? Và con lên đây bằng cách nào? Thần Gió cau mày, nghiêm giọng hỏi.
Công chúa ngồi xuống một tảng đá, kể lại những bất hạnh của mình. Nàng mệt quá, đến nỗi giọng nàng yếu dần, yếu dần rồi tắt hẳn. Nàng ngồi đó, lặng yên, mắt nhắm nghiền, nước mắt rơi lã chã xuống đôi bàn tay trắng ngần.
Thần Gió không nói một lời, nhốt vào chai cơn gió cuối cùng đang rong chơi trên cánh đồng. Cảnh vật lặng như tờ, hoàng hôn dần buông xuống. Công chúa khóc mãi. Thần Gió lại lên tiếng, nhưng lần này giọng ông hết sức ân cần.
– Như vậy là, con muốn ta cho con mượn bảy cái chai. Con có biết rằng chúng đựng tất cả gió của thế gian này? Liệu có thể cho người phàm trần mượn những thứ như vậy không?
Công chúa ngừng khóc, nhưng không hé răng nửa lời, cả đến nhìn Thần Gió nàng cũng không dám nữa.
– Ta chưa từng thấy ai dám hy sinh thân mình như con, Thần Gió nói tiếp, giọng nghiêm trang. Con không đáng bị khổ sở đến thế. Ta cho con mượn bảy cái chai, nhưng con sẽ phải mang trả lại ta. Phải nhớ rằng chỉ được mở nút chai khi đã đến bờ biển Jou, và đã mở thì phải mở cả bảy cùng lúc để gió bão đủ sức xuống tận đáy biển sâu.
Quá vui mừng, công chúa luống cuống không biết trước tiên phải làm gì. Thần Gió giúp nàng bọc bảy cái chai trong chiếc khăn choàng, nàng buộc bốn góc lại. Nàng hết lòng cảm ơn Thần Gió, rồi nhanh chóng lên đường trở về. Đêm đã xuống nhưng nàng không muốn nghỉ ngơi lấy một giây. Nàng vấp ngã loạng choạng trong bóng tối, tiến lên chậm chạp, khi phương đông đã tỏa sáng ánh hồng và dãy núi lùi lại phía sau, nàng tiến thẳng về phía biển Jou. Tuy nhiên, đường còn dài! Con đường như không hề ngắn lại. Nàng đi như thế trong nhiều ngày liền, đi cả ngày lẫn đêm, không ngừng nghỉ. Cuối cùng nàng cũng tới được một vùng quen thuộc. Chỉ còn một đoạn đường ngắn là đến biển Jou, đột nhiên toàn bộ sức lực rời bỏ nàng. Nàng cảm thấy không thể cất thêm một bước nào nữa. Cần phải nghỉ, dù chỉ trong chốc lát. Nàng thấy trên một đoạn khuất của con đường một phiến đá lớn nhẵn lì. Phiến đá như mời gọi nàng. Công chúa tự nhủ chỉ ngả lưng một lát rồi lại lên đường ngay. Nàng thận trọng đặt cái bọc đựng bảy chai gió dưới chân, ngả mình lên tảng đá rồi ngủ thiếp đi mê mệt.
Trong suốt thời gian đó, nhà vua phái người dò la tung tích con gái khắp xứ sở, nhưng không ai để lộ nàng đã đi qua. Các sứ giả của nhà vua lùng sục mọi con đường dẫn đến biển Jou, cày xới những vùng xung quanh. Một sự tình cờ ác hại dẫn hai tên trong bọn chúng đến gần phiến đá trên đó nàng công chúa đang say ngủ. Không một tiếng động, chúng xem xét các thứ đựng trong bọc. Vì tò mò, chúng mở nút một cái chai và ph…ì…i…i…, gió thổi rung cây cối. Hai tên sứ giả phát hoảng. Nhưng chúng quyết định cứ kín đáo mở nút tất cả các chai. Trước hết, chúng đóng nút cái chai vừa mở, đặt vào chỗ cũ. Sau đó, chúng mở nút cái chai thứ hai. U..ú…u…u…! Gió bão hú rung chuyển quả đồi bên cạnh. Cuống cuồng, chúng mở nút cái chai thứ ba, và u…ù…u…u! Một luồng gió xoáy gầm vang, tuốt sạch lá trên các cành cây. Thật kinh ngạc làm sao chúng không bị cuốn đi!
Cùng lúc, công chúa cựa mình, hai tên sứ giả phát hoảng, lủi mất. Công chúa mở mắt và nhận ra mình đã ngủ thiếp đi. Nàng vội vàng đứng dậy, vớ lấy cái bọc và chạy thật nhanh về phía biển Jou.
Trên mặt biển mênh mông, những gợn sóng lăn tăn rập rình lười biếng. Công chúa dừng lại trên bờ cát. Mắt nàng lấp lánh như hai viên kim cương. Nàng lẩm nhẩm khe khẽ một mình: “Kiên nhẫn một chút nữa thôi, chỉ lát nữa mình sẽ được gặp lại chàng!” Nàng nhanh chóng cởi bọc, lấy ra bảy cái chai, xếp cạnh mé nước, mở cái chai thứ nhất, rồi cái thứ hai. Mặt biển rung rinh, rên xiết, những đợt sóng cao như núi chồm lên. Công chúa vội mở nút chai thứ ba và thứ tư. Từ giữa biển, một cột nước khổng lồ dựng lên, cao, cao hơn nữa, nước bắn tung tóe. Cột nước như tung hết nước biển lên trời. Công chúa vội mở ba cái chai còn lại. Nhưng không một chai nào có gió thoát ra quật vào biển Jou. Không còn gì hết.
Công chúa đứng đó, lặng người vì tuyệt vọng. Nàng ngắm mấy cái chai rỗng, và hiểu rằng, kể từ nay, chẳng bao giờ, chẳng bao giờ nữa, nàng có thể giải thoát được cho chồng mình. Lặng lẽ, nàng đổ vật xuống bờ biển như hóa đá, nhìn mặt biển mỗi lúc mỗi lặng dần những đợt sóng lớn. Nàng cảm thấy mình đang chết. Đến rạng đông ngày thứ ba, mặt trời mọc trên biển Jou, công chúa nằm bất động trên bờ cát, cạn hết sức sống, chỉ riêng đôi mắt đã chết vẫn nhìn về phía nước sâu nơi thủ lĩnh Albin thân yêu của nàng vĩnh viễn nằm lại.
Từ đó đến nay đã nhiều năm trôi qua, nhưng dân chúng vẫn còn kể câu chuyện này. Và mỗi khi phía chân trời hiện lên một vầng mây trắng lớn, họ lại nói: “Đó là Mây Trắng đi tìm chồng. Chắc chắn trời sẽ nổi gió”.
Hết truyện 6. Truyện tiếp theo sẽ được cập nhật trong thời gian nhanh nhất