Con gà là vật nuôi gắn bó với đời sống của con người đã lâu đời, được nhân dân ta xếp vào loài lục súc, gia cầm.
Bài 1: Con gà
Con gà là vật nuôi gắn bó với đời sống của con người đã lâu đời, được nhân dân ta xếp vào loài lục súc, gia cầm.
Nhà nông dùng chuồng để nuôi gà, lót ổ rơm cho gà mái đẻ, chăn thả tự nhiên. Trong một đàn gà, gà trống và gà mái chiếm tỉ lệ khoảng 50%.
Gà trống có bộ lông sặc sỡ, đủ 4-5 màu (đỏ, tía, nâu, xanh biếc, đen, vàng chanh,…). Gà trống có mào đỏ thắm, mắt màu vàng than, mỏ sắc như mũi giáo bằng thép, chân có lớp vảy cứng bao bọc, móng chân sắc như những chiếc vuốt. Cựa gà trống nhọn hoắt như mũi dùi, là vũ khí rất lợi hại.
Con gà trống nào cũng có một đồng hồ sinh học rất chính xác để gáy sang canh, gáy dồn báo sáng vang rộn xóm làng. Gà trống gáy là cái đồng hồ báo thức cho nhà nông ra đồng cày cấy:
“Lao xao gà gáy rạng ngày
Vai vác cái cày, tay dắt con trâu
Bước chân xuống cánh đồng sâu
Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu ra cày ”
(Ca dao)
Gà trống để phối giống. Các nhà gia cầm học cho biết một chú gà trống có thể cặp kè với 20 ả gà mái; vòng đời 3, 4 năm, nó có một đại gia tộc gồm hàng trăm con, cháu, chút, chít. Thịt gà trống ngọt đậm; gà thiến béo, to con. Chọi gà là một trò chơi dân gian được tổ chức trong một số lễ hội.
Gà mái đẻ trứng ấp và nuôi con, tượng trưng cho sự tần tảo, đức hi sinh của bà mẹ. Mỗi gà mái có thể đẻ trứng và ấp, nuôi con 4 lứa/ một năm. Thịt gà mái ghẹ là ngon nhất. Câu tục ngữ “Cơm gà cá gỡ” cho biết món thịt gà là món đầu vị trong mâm cỗ, giỗ, Tết của nhân dân ta xưa, nay.
Trong nền kinh tế thị trường, nhiều trại gà công nghiệp nuôi đến hàng nghìn, hàng vạn con. Thịt gà công nghiệp, trứng gà công nghiệp không ngon bằng thịt gà ta, trứng gà ta.
Gà Đông Tảo, gà Hồ … là hai giống gà nổi tiếng nhất ở nước ta, thịt thơm ngon, có giá trị kinh tế cao.
Nghe gà gáy mà man mác nhớ đến truyện cổ tích “Sọ Dừa “. Nghe gà gáy sáng, kẻ tha hương vương vấn tình quê vơi đầy. Nuôi gà chăn thả tự nhiên là nguồn thu nhập khá của không ít gia đình ở mọi miền quê trên đất nước ta.
Bài làm 2 Con tằm
Có hàng nghìn, hàng vạn loài bướm. Có nhiều giống bướm rất đẹp. Có không ít giống bướm làm hại cây trồng. Riêng con tằm, cũng là sâu của một loài bướm, được gọi là con ngài lại được con người nuôi nấng, chăm sóc, quý trọng.
Ngài đẻ trứng, trứng nở thành sâu tằm. Sâu tằm ăn lá dâu, phải để nơi kín gió, phòng ruồi nhặng, thạch sùng,… Sau nhiều lần lột xác, sâu tằm lớn lên và làm kén. Khi tằm “ chín ” bụng vàng óng căng tròn để chuẩn bị làm tổ, làm kén. Kén tằm hình trứng, bằng đốt ngón tay búp măng, dài độ l,5-2cm. Kén tằm là một cái tổ, một “cung cấm” được bao bọc, được dệt bằng những sợi tơ, tơ ấy hình thành từ tuyến nước bọt. Tằm nhả chất nước bọt lỏng qua lỗ nhả tơ ở môi dưới. Tằm cứ nhả nước bọt và tự quây tròn; gặp không khí, nước bọt đông lại tạo thành tơ. Chỉ từ 24-36 giờ, tằm dệt xong kén, tằm lột xác lần nữa và hóa nhộng sau ba, bốn ngày. Nhờ có kén tơ, nhộng nằm ngủ và được bảo vệ tránh những điều kiện bất lợi trong môi trường. Chính thời điểm này, người nuôi tằm phải kịp thời ươm tơ, mới có tơ loại 1 để dệt lụa.
Nhộng nằm ngủ trong kén, qua từ 7-10 ngày, nó biến thành con bướm, được gọi là con ngài; ngài cắn kén chui ra. Con ngài vỗ cánh rối rít. Ngài đực và ngài cái giao phối với nhau. Sau đó, ngài đực chết; ngài cái đẻ khoảng 500-1000 trứng, rồi chết theo. Trứng lại nở thành sâu tằm, và vòng đời lại tiếp tục. Vòng đời của con tằm chỉ độ 4-5 tuần (30-36 ngày).
Cùng với nghề trồng bông dệt vải, nhân dân ta từ xa xưa đã biết trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa. Nhộng tằm là một thức ăn béo ngậy, giàu chất đạm, được nhiều người ưa thích. Ở Sơn Tây, ở Huế, ở Đại Lộc, Quảng Nam,… có nhiều làng nghề nuôi tằm, dệt lụa nổi tiếng. Thăng Long xưa có lụa Trúc Bạch. Làng Vạn Phúc có nghề dệt lụa nức tiếng gần xa.
“Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng”…, “Một nong tằm là năm nong kén”…, “Nong tằm, ao cả, nương dâu / Đò xưa, bến cũ nhớ câu hẹn hò”,… – những câu ca ấy với màu xanh bát ngát nương dâu mãi mãi là hồn quê, tình quê.
Chia sẻ: Tailieuhay.net