Soạn bài Buổi học cuối cùng siêu ngắn nhất trang 49 SGK ngữ văn 6 tập 2 giúp tiết kiệm thời gian soạn bài
Câu 1:
Trả lời câu 1 (trang 54, SGK Ngữ văn 6, tập 1):
– Câu chuyện được kể diễn ra tại lớp học thuộc vùng An-dát ở nước Pháp, sau cuộc chiến tranh Pháp – Phổ, nước Pháp thua phải cắt vùng An-dát cho Phổ.
– Tên tác phẩm: có nghĩa là buổi học cuối cùng học bằng tiếng Pháp.
Câu 2:
Trả lời câu 2 (trang 55, SGK Ngữ văn 6, tập 1):
– Truyện được kể theo lời nhân vật Phrăng. Kể theo ngôi thứ nhất.
– Truyện còn có những nhân vật khác như là: thầy Ha-men, bác phó rèn Oát-stơ, cụ Hô–de, người làng, học sinh,…
– Nhân vật thầy giáo Ha-men gây cho em ấn tượng nổi bật nhất.
Câu 3:
Trả lời câu 3 (trang 55, SGK Ngữ văn 6, tập 1):
Những điều khác lạ trên đường đến trường, quang cảnh ở trường và không khí trong lớp học qua quan sát của Phrăng:
– Khi qua trước trụ sở xã: có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị có lưới che.
– Quang cảnh ở trường: bình lặng như một buổi sáng chủ nhật.
– Phrăng đến lớp muộn nhưng thầy giáo không quở trách.
– Không khí trong lớp: trang trọng, thầy Ha-men mặc lễ phục, thầy dịu dàng không giận dữ; phía cuối lớp, dân làng ngồi lặng lẽ, có cả các cụ già đến dự buổi học và mặt ai cũng có vẻ buồn rầu.
Câu 4:
Trả lời câu 4 (trang 55, SGK Ngữ văn 6, tập 1):
Ý nghĩ, tâm trạng của chú bé Phrăng diễn biến trong buổi học cuối cùng:
– Lúc đầu cậu ngạc nhiên, sững sờ khi nghe thầy Ha-men nói đây là buổi học cuối cùng.
– Cậu nuối tiếc và hối hận vì sự lười nhác, ham chơi của mình.
– Cậu xấu hổ và tự giận mình.
– Kinh ngạc khi nghe thầy Ha-men giảng ngữ pháp sao lại hiểu đến thế “Tôi cũng cho là chưa bao giờ mình chăm chú nghe đến thế”.
Câu 5:
Trả lời câu 5 (trang 55, SGK Ngữ văn 6, tập 1):
– Nhân vật thầy giáo Ha-men được miêu tả:
+ Trang phục: mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu.
+ Thái độ đối với học sinh: lời lẽ dịu dàng, nhắc nhở nhưng không trách phạt, quở mắng Phrăng khi cậu đến muộn và khi cậu không đọc được bài, nhiệt tình và kiên nhẫn giảng bài.
+ Những lời nói về việc học tiếng Pháp: điều mà thầy muốn nói nhất với mọi người trong vùng An dát và cậu bé Phrăng đó là hãy biết yêu quý, giữ gìn và trau dồi cho mình tiếng nói, tiếng dân tộc (tức là tiếng Pháp),
+ Hành động, cử chỉ lúc buổi học kết thúc: thầy nghẹn ngào, không nói được hết câu và thầy dằn mạnh hết sức viết lên bảng “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”.
– Nhân vật thầy Ha-men gợi ra ở em cảm nghĩ: Thầy chính là một người yêu nước và yêu tiếng của dân tộc hết mực.
Câu 6 -> 7
Trả lời câu 6 (trang 55, SGK Ngữ văn 6, tập 1):
Một số câu văn sử dụng phép so sánh:
– Tiếng ồn ào … như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố.
– Mọi sự đều bình lặng y như một buổi sáng chủ nhật.
– Những tờ mẫu treo trước bàn học trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới khắp xung quanh lớp.
– Thầy Ha-men đứng lặng im trên bục và đăm đăm nhìn những đồ vật quanh mình như muốn mang theo trong ánh mắt toàn bộ ngôi trường nhỏ bé của thầy.
…
Trả lời câu 7 (trang 55, SGK Ngữ văn 6, tập 1):
Suy nghĩ về lời nói của thầy Ha-men: “… khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ … chìa khóa chốn lao tù …”:
Câu nói của thầy nêu bật giá trị thiêng liêng và sức mạnh to lớn của tiếng nói dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập tự do. Tiếng nói dân tộc được hình thành và vun đắp bắng sự sáng tạo của bao thế hệ. Chính vì vậy, phải biết yêu quý, giữ gìn và học tập để phát huy tiếng nói của dân tộc.
Luyện tập
Trả lời câu 1 (trang 56 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):
Chuyện kể về buổi học tiếng Pháp cuối cùng ở vùng An-dát qua lời kể của cậu học trò Phrăng. Sáng hôm ấy, cậu bé Phrăng đến lớp hơi muộn và ngạc nhiên khi thấy lớp học có vẻ khác thường. Cậu thực sự choáng váng khi nghe thầy Ha-men nói đây là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Cậu thấy tiếc nuối và ân hận vì bấy lâu nay đã bỏ phí thời gian, đã trốn học đi chơi và ngay sáng nay cậu cũng phải đấu tranh mãi mới quyết định đến trường. Trong buổi học cuối cùng đó không khí thật trang nghiêm. Thầy Ha-men đã nói những điều sâu sắc về tiếng Pháp, đã giảng bài say sưa cho đến khi đồng hồ điểm 12 giờ. Kết thúc buổi học, thầy nghẹn ngào không nói nên lời, thầy cố viết thật to lên bảng: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM“.
Trả lời câu 2 (trang 56 sgk Ngữ Văn 6 Tập 2):
Buổi sáng đẹp trời, Phrăng đã định trốn học để chạy nhảy trên cánh đồng cỏ Ríp – pe, nghe tiếng sáo hót ven rừng, đi bắt tổ chim hoặc trượt trên hồ. Nhưng cậu bé cưỡng lại được và ba chân bốn cẳng chạy đến trường. Thầy Ha – men thông báo với cậu đây là buổi học Pháp văn cuối cùng. Phrăng nghe tin mà rụng rời. Khuôn mặt cậu đỏ bừng vì tức giận, rồi chuyển dần sang tái nhợt vì choáng váng. Đôi mắt đen láy ngây thơ không còn hiện lên vẻ tinh nghịch mà thay vào đó là một nỗi mất mát, một nỗi sợ mơ hồ. Đôi bàn tay nhỏ bé run run lấy sách từ trong cặp để lên bàn, lật giờ từng trang thật nhẹ nhàng. Ánh mắt của Phrăng dõi theo thầy Ha – men như thể sợ thầy có thể biến mất. Lúc được gọi lên đọc bài, Phrăng lúng túng và đung đưa người trên chiếc ghế dài, lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên vì xấu hổ. Cậu quan sát lớp học, những khuôn mặt, hành động và sự nhẫn nại của thầy Ha – men để khắc sâu hồi ức về buổi học này trước khi bị ép học tiếng Đức. Suốt cả buổi học, Phrăng chăm chú nghe thầy giảng như nuốt lấy từng lời cho đến khi tiếng chuông cầu nguyện buổi trưa vang lên báo hiệu giờ học kết thúc.
Bố cục
– Đoạn 1 (Từ đầu … đến “mà vắng mặt con“): Quang cảnh trên đường đến trường và cảnh ở trường qua sự quan sát của Phrăng.
– Đoạn 2 (Tiếp theo … đến “buổi học cuối cùng này“): Diễn biến của buổi học cuối cùng.
– Đoạn 3 (Còn lại): Cảnh kết thúc buổi học cuối cùng.
Câu 9
Qua câu chuyện buổi học cuối cùng bằng tiếng Pháp ở vùng An-dát bị quân Phổ chiếm đóng, Phrăng hiện lên là một chú bé hiếu động, thông minh, nhạy cảm, có tình yêu chân thành với người thầy, yêu nước sâu sắc. |
Chia sẻ: Tailieuhay.net